Nỗi Chết Không Rời
________________________________________
Chết không phải là sự mất mát lớn nhất trên đời. Sự mất mát
lớn nhất trên đời chính là điều gì chết trong lòng ta trong khi ta còn sống..Norman
Cousins (1915-1990), một nhà báo, nhà văn, giáo sư đại học và là người chủ
trương hòa bình thế giới của Mỹ nói như thế. Chúng ta nghĩ đến cái chết khi có
điều gì đó vô cùng thân thiết mất mát trong chúng ta, chẳng hạn như sự ra đi của
một người ta mến thương trong gia đình, trong vòng giao tiếp bạn bè hay xã hội.
Phần lớn những tin tức hàng ngày trên đài truyền hình, mặt
báo, internet, đều có liên quan đến chết chóc. Buổi sáng vừa mở mắt thức dậy do
radio báo thức đã nghe tin chết. Binh sĩ Canada, Mỹ tử trận trên các chiến trường
A Phú Hãn. Bom khủng bố ở Iraq. Phi cơ rớt đâm trúng nhà dân. Xe buýt chở du
khách lật nhào xuống hố bên đường. Xả súng bắn giết người rồi tự sát trong học
đường, nơi nhà riêng. Sát nhân. Tự tử. Chết vì tai nạn. Chết vì bệnh tật. Tuyết
chỉ rơi trong mùa đông. Lá vàng chỉ rụng trong mùa thu. Mạng người rơi rụng
không ngừng nghỉ từng mỗi phút giây theo suốt thời gian. Sinh và diệt liên tục
xảy ra như một qui luật bất biến và trường cữu. Một nỗi chết không rời. Một tên
tuổi thân quen trong cộng đồng cũng vừa bị bệnh cướp mất mạng sống bất ngờ ở tuổi
chưa hưu.
Theo tài liệu thống kê, mỗi năm trên thế giới có ít nhất là
năm mươi triệu người chết. Riêng tại Hoa kỳ, bất cứ lúc nào cũng có khoảng một
triệu người đang nằm bệnh viện. Đó là không kể nhiều người trong chúng ta tuy
đang sống khoẻ mạnh bình thường nhưng cứ hở ra là than, "Thiệt rầu (hoặc mệt)
muốn chết!" Phải chăng chúng ta đang sống và chờ chết. Không ai tránh được
cái chết. sinh là mầm mống của diệt, trong cơn tao ngộ có mầm chia ly. Vì vậy
ta nên sống hơn là chỉ hiện hữu trên cõi đời. Có người nói, "Cái chết phổ
cập hơn sự sống vì chết thì ai cũng chết nhưng sống thì chưa chắc ai cũng sống
cho đúng nghĩa". Một người khác nói, "Ðừng sợ chết, tốt hơn nên sợ sống
không đủ".
Chờ chết là đang trong tình trạng vô phương cứu chữa vì bệnh
tật hoặc vì thương tích trầm trọng, và chỉ còn nằm chờ chết mà thôi, không còn
cơ may nào bình phục. Người Việt Nam chúng ta không dùng từ ngữ "đang chết"
suông mà thường nói là đang chết dần chết mòn. Nguyên nhân chính đưa đến cái chết
là do bệnh hiểm nghèo như tim mạch, ung thư và tiểu đường. Thời gian chờ chết
vì mắc bệnh loại nầy có khi kéo dài nhiều tháng hoặc nhiều năm. Người tiêu cực
và bi quan thì chờ chết sớm hơn và lâu hơn. Đối với họ, đang sống tức là đang
chờ chết. Người đời gọi họ là thây ma còn biết thở.
Sống mà tự hành hạ hủy hoại thân xác, không đếm xỉa gì đến
việc giữ gìn sức khỏe, có bệnh mà không lo chữa trị, tự dấn thân vào những hiểm
nguy không cần thiết một cách thiếu suy nghĩ, đó là một hình thức tự tử gián tiếp.
Mặc dù hành động tự mình làm cho mình chết đã xảy ra suốt chiều dài của lịch sử
loài người, nhưng tự tử chỉ được sách vở Tây phương bắt đầu nói đến vào giữa thế
kỷ thứ 17. Thật cũng may cho chúng ta là thủy tổ loài người như ông A-đam và bà
Ê-và chưa biết đến tự tử là gì, nếu không thì ngày nay đã không có loài người
chúng ta. Tại Hoa-kỳ mỗi năm trung bình có vào khoảng ba chục ngàn người tự kết
liễu cuộc đời. Đa số họ là đàn ông và dùng súng. Phái đẹp dĩ nhiên lưu tâm đến
sắc đẹp, sợ tự tử bằng súng sẽ làm thủng lỗ hư hỏng tấm thân ngà, bê bết máu, mất
đẹp! Ðã đẹp thì phải đẹp cho đến chết. Cô nào, bà nào đã từng tốn bạc ngàn cho
thẩm mỹ viện lại càng không muốn tự dí súng vào đầu, vào ngực mình để bóp cò một
cái đùng cả. Uống thuốc ngủ là cách tự tử phụ nữ chọn nhiều nhất.
Tỉ số tự tử ở Florida hơi cao hơn các tiểu bang khác vì đây
là vùng đất có nhiều người già về hưu chọn ở; mà già, bệnh và cô đơn là những yếu
tố chính đưa đến tự tử. Các nhà xã hội học phân biệt ba loại tự tử. Loại thứ nhứt
là tự tử vị kỷ (egoistic suicide). Những người tự tử loại nầy là những người
quá tự ái, khó hòa đồng và thích nghi với những qui luật trật tự và khuôn thước
của xã hội. Họ có khuynh hướng chống đối, phản kháng, chối bỏ và cách ly với
hoàn cảnh. Thí dụ: con cái tự tử vì bị cha mẹ rầy la, một chàng trai hay một cô
gái bị từ chối tình yêu. Loại thứ hai là loại trái ngược lại, tức là tự tử vị
tha (altruistic suicide). Những người nầy quá quên mình, quá dấn thân, quá phục
vụ lý tưởng mà họ tôn thờ, chỉ biết có tập thể, đảng đoàn, xã hội, tổ quốc và đại
nghĩa. Thí dụ: tướng chết theo thành, phi công Thần Phong của quân đội Nhật. Loại
thứ ba là tự tử vì chán đời, tủi phận (anomic suicide). Những người nầy mang mặc
cảm bị khinh khi, phụ bạc, ruồng bỏ, hất hủi hay thất bại, tuyệt vọng về tình
trạng bệnh tật, trầm cảm. Vốn quen sống trong một môi trường bình thường, khi
phải đương đầu đối mặt với nghịch cảnh đổi thay, họ trở nên mất định hướng, cảm
thấy bất an, và tự tử là cách trốn thoát khỏi nghịch cảnh đó. Thí dụ: một nhà
văn mất hết niềm tin, một người già đau yếu và cô đơn, một con bạc thua cháy
túi.
Thật ra, mặc dù được phân chia theo tên gọi như trên, nhưng
ba loại tự tử này không hẳn có lằn ranh phân biệt rõ rệt. Trong nhiều trường hợp,
sự tìm đến cái chết có khi vừa vì vị kỷ vừa vì chán đời. Cũng có khi vì chán đời
rồi muốn làm anh hùng chết cho lý tưởng. Hai ngành phân tâm học và sinh học có
góc nhìn riêng và giải thích riêng về tự tử, nhưng bài viết không bàn sâu rộng,
vì người viết e rằng mình không đủ khả năng.
Ở Mỹ, một người hấp hối trung bình nằm bịnh viện tám mươi
ngày trong đau đớn, bệ rạc, và mất nhân phẩm. Đau đớn thì khỏi nói: một con muỗi
chích cũng đã đau huống hồ hàng ngàn hàng vạn con vi trùng đồng loạt cắn phá
tim, gan, phèo, phổi mình. Bệ rạc thì dĩ nhiên rồi: thân xác teo tóp, mặt mày
nhăn nhó, tóc (nếu còn) tai bơ phờ, thà đừng ai vào thăm còn hơn. Mất nhân phẩm
vì không còn đủ sức để tự chăm lo vệ sinh cho chính mình, nhiều khi phải bò phải
lết; mũi, miệng và cổ tay lúc nào cũng gắn vô máy móc có giây ống lòng thòng.
Đó là chưa kể trường hợp không may, gặp phải sự đối xử lạnh lùng của nhân viên
bệnh viện, nhất là ở những nơi giá trị xã hội còn kém như quê nhà chúng ta. Vì
vậy, ít có ai muốn chết trong nhà thương (thương thật không?) mà chỉ muốn chết
trên giường ngủ của chính mình trong nhà mình. Theo các chuyên gia về tâm lý học,
người đang hấp hối sẽ được xoa dịu rất nhiều nếu có ai thường trực ngồi (nằm
càng tốt) bên giường bệnh chia sớt và an ủi. Khi biết mình sắp chết, người hấp
hối trải qua năm giai đoạn: phủ nhận, giận dữ, thương lượng, sầu khổ, và chấp
nhận.
- Phủ nhận sự thật rằng mình đã vô phương cứu chữa: "Vô
lý! Mình không cờ bạc, rượu chè, trai gái, nghiện hút gì ráo; ăn ngủ thì luôn
luôn điều độ; dô-ga, tài-chí cũng lập luyện hàng ngày; vệ sinh cá nhân giữ gìn
triệt để, vậy thì bệnh thế nào được!" Rồi hi vọng biết đâu bác sĩ đã chẩn
bệnh sai (Tôi khỏe mạnh mà bảo tôi bệnh gần chết, khiến cho tôi lo muốn... chết;
phen nầy ông mà đoán sai, tôi sẽ kiện ông cho... chết!); hay biết đâu ngày mai
hay ngày kia, người ta sẽ tìm ra thuốc thần, thuốc tiên; hoặc sẽ có phép lạ nào
xảy ra như hồi trước ở quê ta có ông đạo mò, ông đạo rờ, ông đạo liếm; cứ mò, rờ,
liếm một cái là hết bệnh liền.
- Giận dữ vì nghĩ rằng tại sao ông trời bất công bắt mình phải
chết, tại sao mọi người chung quanh không cố gắng hết sức và làm đủ mọi cách để
cứu mạng mình, tại sao mình chết sớm trong khi những người đồng tuổi vẫn cứ sống
phây phây.
- Thương lượng mặc cả với trời, với đấng thiêng liêng cứu rỗi,
cầu nguyện và xin cho mình sống thêm một vài năm nữa, nếu được như vậy mình hứa
từ nay sẽ trở thành một con người tốt hơn, ăn hiền ở lành, tu nhân tích đức,
siêng năng đi lễ, phát tâm cúng dường rộng rãi hơn.
- Sầu khổ than khóc thiểu não khi cảm thấy rằng tình thế đã
đi vào con đường cùng tuyệt vọng hết phương cứu chữa.
- Sau cùng, chấp nhận cái chết và sẵn sàng chịu ra đi trong
an bình thảnh thơi. Khi đã ơ vào giai đoạn chấp nhận, người hấp hối không còn sợ
chết nữa. Trái lại, họ chuẩn bị tinh thần và sẵn sàng ra đi với niềm tin và hy
vọng sẽ gặp lại người thân quá vãng trước họ. Có nhiều người còn "tranh đấu
đòi quyền chết", yêu cầu bác sĩ phải ngưng mọi cố gắng chữa trị, phải làm
cách nào cho mình chết lẹ lẹ giùm để khỏi
kéo dài sự chịu đựng đau đớn.
Euthanasia, sự huệ tử hay trợ tử, sự giúp làm chết một cách
êm ái, là một vấn đề mới được đặt ra. Nếu bác sĩ làm theo lời bệnh nhân, thì việc
làm đó của bác sĩ nên coi là cứu người hay giết người? Vấn đề nầy vẫn còn đang
được bàn luận tranh cãi tùy theo góc nhìn của các nhà làm pháp luật và đạo đức.
Kể từ ngày cây súng lục được phát minh, việc bóp cò súng để
bắn một phát đạn xuyên óc đã trở thành phương cách tự tử thịnh hành nhất vì hiệu
quả nhanh chóng, đặc biệt là ở Mỹ, một xứ quá tự do đối với quyền sở hữu súng cầm
tay. Không có súng, người ta phải tự tử bằng những cách cũ hơn như uống thuốc độc,
tự thiêu, tuyệt thực, treo cổ, nhảy xuống sông, cắn lưỡi, cắt mạch máu cổ tay,
v.v.
Đặc biệt người Nhật dùng kiếm mổ bụng tự tử theo tinh thần
võ sĩ đạo một cách trang nghiêm đáng tôn kính. Hara kiri hay seppuku (thiết
phúc = mổ bụng tự sát) trở thành lối tự tử trong danh dự có tính cách bắt buộc
dưới thời Minh Trị Phục Hưng (1867-1912). Sau đó, nhiều người Nhật vẫn tự nguyện
chọn cách chết nầy để bảo toàn danh dự. Một thuyền trưởng chiếc tàu chở xe hơi
Nhật sang Canada chọn cách chết nầy vì nhiều xe bị hư hại khi tàu cập bến
Vancouver. Một ký giả báo Toronto Star người Canada gốc Nhật mổ bụng tự tử vì
vô ý dùng một đoạn văn của người khác và bị buộc tội đạo văn (plagiarism). Nhà
văn nổi danh Nhật Mishima Yukio (1925 - 1970) công khai mổ bụng chết vì ông
quan niệm con người cần hành xử quyền tự quyết định cho cái chết của mình.
Yasunari Kawabata (1899-1972), giải Nobel văn chương 1968, cũng tự kết liễu đời
mình.
Một vị tướng giỏi của nhà Nguyễn là Võ Tánh đã tự thiêu chết
theo thành Qui nhơn năm 1801 sau suốt hai năm bị quân Tây-sơn bao vây đến cạn hết
lương thực. Phó tướng của ông là Ngô Tùng Châu cũng tuẩn tiết. Trong giai đoạn
đầu của lịch sử kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta, có rất nhiều tấm gương tự
tử kiêu hùng. Người dân Việt lúc bấy giờ có chính nghĩa sáng ngời là chống ngoại
xâm để bảo vệ quê cha đất tổ. Vì thế, họ chiến đấu với một tấm lòng cực kỳ hăng
say và không sợ chết. Bị giặc bắt xử tử, họ hiên ngang bước lên đoạn đầu đài hô
lớn lên mấy tiếng "Việt Nam Muôn Năm!" cho hào khí bay cao ngất trời
như trường hợp của Nguyễn Thái Học (1902-1930) và mười hai đồng chí của ông ở
Yên-bái. Cái chết của Nguyễn Trung Trực trong giai đoạn đầu của công cuộc kháng
Pháp còn hiên ngang hùng tráng hơn khi ông bước lên pháp trường bình tĩnh vén
tóc gáy và ngửa cổ cho đao phủ chém ngày 27-10-1868 ở Kiên Giang (Rạch Giá).
Theo truyền thuyết thì khi đầu ông vừa bị chém đứt và đang rơi xuống, theo phản
ứng tự nhiên, một tay ông đưa lên chụp cái đầu và đặt nó vào vị trí cũ; sau đó,
toàn thân ông mới quị xuống. Chiến công đánh Pháp của Nguyễn Trung Trực được đời
sau ghi nhớ qua hai câu thơ "Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa, Kiếm bạt
Kiên Giang khấp quỷ thần" của nhà thơ ái quốc Huỳnh Mẫn Đạt.
Sau đây là một số trường hợp tự tử tiêu biểu. Nguyễn Cao
(1840-1895) là một người yêu nước làm quan 17 năm đến chức bố chánh rồi Tán-lý
quân-vụ. Ông treo ấn từ quan khi triều đình Huế ký hòa ước 1884 với Pháp, vào
chiến khu Bãi Sậy giúp Nguyễn Thiện Thuật. Đến năm 1895, ông bị bắt. Việt gian
Hoàng Cao Khải chiêu dụ ông không được, ra lệnh tra tấn. Ông cười ngạo nghễ và
dùng mảnh sành rạch bụng cho lòi ruột. Chưa hết, sau khi mắng chửi Hoàng Cao Khải
một hồi, ông cắn lưỡi chết.
Nguyễn Tri Phương (1798-1873) giữ thành Hà Nội anh dũng chống
trả đợt tấn công của đại quân Pháp. Bị bắt và bị thương, ông không để cho quân
Pháp băng bó cứu chữa, vừa nhịn ăn cho đến chết. Chín năm sau, cũng cùng nơi
đó, Hoàng Diệu (1828-1882) bị quân Pháp tấn công. Ông không giữ được thành,
treo cổ tự tử. Phan Thanh Giản (1796-1867) là một ông quan đại thần nhà Nguyễn
suốt đời tận tụy với non sông đất nước. Ông được triều đình cử làm chánh sứ trưởng
phái đoàn điều đình với Pháp để chuộc lại ba tỉnh miền Đông. Việc thương lượng
không thành, ông nhịn ăn 17 ngày vẫn không chết nên phải mượn chén thuốc độc để
quyên sinh. Phạm Hồng Thái ám sát hụt Toàn-quyền Đông-dương của Pháp là Merlin ở
Quảng-châu năm 1924. Ông nhảy xuống sông tự trầm. Người Trung-hoa yêu nước ngưỡng
phục ông, chôn ông trên đồi nghĩa trang Hoàng-hoa-cương, bên cạnh mộ của 85 liệt
sĩ Trung-hoa đã bị triều đình Mãn Thanh hành quyết sau một cuộc nổi dậy bất
thành.
Chúng ta cũng không quên những vị anh hùng của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa thà chết không hàng giặc Cộng xâm lăng trong biến cố Quốc Nhục
30/4/1975 như các tướng lãnh Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Trần
Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, và các đại tá Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Hữu Thống, Trần Văn Chữ,
Lê Cầu; như thiếu úy Huỳnh Văn Thái cùng 7 chiến sĩ Dù quay vòng tròn hát vang
vang rồi mở chốt lựu đạn tự sát tập thể trong Chợ Lớn; như hàng ngàn quan quân
các cấp khác vừa tự sát vừa bị Cộng sản xử bắn.
Tự tử có khi chỉ là một hành động bồng bột đột khơi lúc cảm
xúc lấn át trí khôn, nhưng cũng có khi là một hành động lý trí, một ý chí cương
quyết không lay chuyển. Một người đã quyết tâm tự tìm cái chết thì những đau đớn
của thể xác gây ra bởi những lần tự tử thất bại không làm cho họ sợ hãi và chùn
bước. Họ vẫn tiếp tục dùng đủ mọi phương thức cho đến khi nào đạt được cái chết
mới thôi, như trường hợp của Nguyễn Khắc Nhu, phó chủ tịch trung ương đảng bộ
Việt Nam Quốc Dân Đảng, phụ tá của anh hùng Nguyễn Thái Học. Ông chỉ huy trận
đánh tấn công phủ Lâm Thao ngày 10/2/1930, nghênh chiến với một lực lượng viện
binh Pháp mạnh hơn. Bị thương nặng ở chân, ông mở chốt lựu đạn rồi nằm lên để tự
sát nhưng chỉ bị thương ở bụng và ngực mà vẫn chưa chết. Quân Pháp băng bó vết
thương cho ông và khiêng về hậu cứ. Dọc đường ông nhảy xuống sông nhưng lại được
vớt lên cứu sống. Bị trói tay chân và giam vào ngục, đợi lúc đêm khuya ông đập
đầu vào tường cho đến chết.
Nỗi chết rất gần gũi với con người, là mối ám ảnh triền miên
rình rập chờn vờn và có thể xảy đến với ta bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào. Giữa
sống và chết cách nhau chỉ có một giây phút ngắn ngủi thôi. Có người đang nói
chuyện bình thường chưa dứt câu thì đã chết, như trường hợp của vị tướng John
Sedgwick bị trúng đạn tử thương trong cuộc nội chiến Mỹ năm 1864, khi ông đang
nói chưa hết câu They couldnt hit an elephant at this dist ..(Cách xa như thế nầy
chúng có bắn voi cũng không trúng). Có người đang ăn tiệc vừa nhai vừa chết. Có
người tối đi ngủ, ngủ luôn, sáng hôm sau không dậy nữa! Có người chết vì một
nguyên nhân hết sức hiếm hoi không ai ngờ. Tác-giả bi-kịch Hi-lạp Aeschylus (
525-456 trước Tây-lịch) chết vì bị một con rùa từ trên không rơi xuống trúng
ngay chiếc đầu hói của ông. Con rùa là mồi của một con chim đại bàng bắt được.
Đại bàng có lẽ nhầm tưởng cái đầu hói của ông là một tảng đá; nó buông cho con
rùa rớt vào đầu ông với ý định đập bể con rùa để ăn thịt. Tướng La-mã Fabius
Maximus bị nghẹn cổ chết vì trong sữa dê ông đang uống có kẹt một sợi lông...
dê. Chết kiểu này được gọi là chết lãng nhách.
Vụ khủng bố tấn công ở Mỹ xảy ra ngày 11 tháng Chín năm 2001
xảy ra gây chấn động cả thế giới. Trong số khoảng hơn năm ngàn người chết đó có
19 kẻ khủng bố chết vì tự tử; mấy trăm lính cứu hỏa, cảnh sát, nhân viên các
toán cấp cứu đặc biệt chết được coi là dũng cảm hi sinh vì công vụ; và số người
chết còn lại là những nạn nhân vô tội mà phần lớn được coi là mất tích vì thân
xác đã hoàn toàn bị tiêu hủy. Họ là những người mạnh khỏe đang làm việc mà chết
vì một tai nạn khủng bố thảm khốc nhất từ xưa đến nay. Nó xảy ra thình lình
không ngờ và ngoài sức tưởng tượng. Nó là nỗi chết. Không ai có thể ngờ là sự
việc đó xảy ra. Không ai chuẩn bị trước cả. Một nỗi chết từ trên trời rơi xuống,
nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Từ nay sẽ có nhiều người nhìn cái chết khác đi và sẽ
sống phần đời còn lại khác đi. Người ta có thể sống tích cực hơn hoặc tiêu cực
hơn. Đối với riêng tôi, hình ảnh hai tòa cao ốc bị máy bay đâm vào nổ cháy rồi
lần lượt sụm xuống kinh hoàng quá. Kinh hoàng vì biết rằng trong máy bay và
trong cao ốc đang có hàng bao nhiêu người trực diện với cái chết.
Biến cố kinh hoàng nhứt trong đời tôi là biến cố Ba Mươi Tháng
Tư vì nó biến đổi cả một đất nước thành địa ngục tác hại mấy chục triệu người
dân miền Nam. Ai đã từng kinh qua làm nạn nhân của biến cố lịch sư đó sẽ không
bao giờ quên, mỗi lần nhớ lại vẫn bàng hoàng. Ðối với tôi, đây là biến cố kinh
hoàng thứ nhì ảnh hưởng rất lớn về mặt tâm thần tôi, vì nó cho thấy thảm họa
nhân tạo có thể xảy ra ở bất cứ nơi đâu, ngay cả những nơi mà con người đang thụ
hưởng một đời sống đầy đủ nhất, mạng sống được quí trọng nhất, mọi chuẩn bị chu
đáo nhất.
Nói đến trường hợp biết trước và chuẩn bị, ông bà chúng ta
ngày xưa thường hay có tập tục làm sẵn sinh phần khi về già, nhất là khi người
bạn đường của mình đã từ giã cõi đời. Nhân cơ hội chọn miếng đất và đào lỗ huyệt
để chôn một người, thôi thì đào sẵn thêm một lỗ nữa để dành đó cho tiện. Chính
mắt tôi thấy có người lo xa hơn, mua sẵn một cỗ quan tài để lù lù trong nhà, thỉnh
thoảng lại chui vô nằm thử chơi cho biết. Người đó là bà ngoại của vợ tôi ơ
Long An. Bà lo xa như vậy cũng phải thôi, vì sống trong thời buổi loạn lạc chiến
tranh, lỡ khi chết rồi mới kiếm sắm một cái hòm e không kịp. Bà sắm áo quan trước
vì đang còn có một ít tiền dành dụm chớ không phải vì hòm đang bán giá
"sale". Ở Sài Gòn hồi đó, tôi thấy hãng hòm Tobia tỉnh queo quảng cáo
sản phẩm của họ hà rầm ngay mặt tiền chợ Bến Thành nơi bùng binh, nhưng tôi có
thấy họ đề hàng chữ "đại hạ giá" hoặc "mua một tặng một"
bao giờ đâu!
Trong lịch sử nước ta, có một người tự đào huyệt chôn sống
mình. Đó là Lý Trần Quán, một vị quan dưới thời vua Lê Hiển Tông (1740-1786).
Ông giữ chức Thiêm-sai Tri-lại-phiên ở phủ chúa Trịnh Khải. Năm Bính Ngọ
(1786), quân Tây Sơn đánh ra Bắc, Lý Trần Quán có nhiệm vụ phò chúa Trịnh di tản,
nhưng không ngờ có một người học trò của ông phản bội ông, đem bắt chúa Trịnh tại
làng Hạ-lôi, huyện Yên lãng, Sơn Tây nạp cho quân Tây Sơn để lấy thưởng. Chúa
Trịnh Khải rút dao nhỏ dấu trong người tự đâm vào cổ rồi dùng tay móc toạc vết
thương cho đến chết. Qua ngày hôm sau, bậc trung thần Lý Trần Quán tự đập đầu bật
máu để cầu mong minh chúa hiểu thấu cho tấm lòng trung kiên của mình, rồi nằm
xuống lỗ huyệt đào sẵn và sai người lấp đất chôn sống mình chết theo cho tròn đạo
chúa tôi.
Người ta thường ví cái chết nhẹ tựa lông hồng, thật là khó
hiểu. Lông hồng là lông gì? Bộ nó là một trong những thứ nhẹ nhứt trên đời sao?
Tự điển giải thích lông hồng là lông chim hồng, hết. Mà chim hồng là chim gì,
hình dáng nó như thế nào, lớn hay nhỏ, lớn thì lớn cỡ nào, nhỏ thì nhỏ bao
nhiêu, nó là loại chim trong huyền thoại hay hiện hữu ngoài đời, lông của nó
màu gì, rất tiếc Việt Nam không có một bộ bách khoa tự điển cắt nghĩa và giải
thích cho cặn kẽ. Thôi thì cứ hiểu đại khái rằng lông của chim hồng nhẹ lắm lắm,
nhẹ như... cái chết vậy đó! Thế còn coi nhẹ mạng sống thì sao? Nó có đồng nghĩa
với cái chết hay không? Dường như người đời xưa dễ chết hơn người đời nay, vì
ngày xưa người ta coi mạng sống và cái chết nhẹ lắm. Bá Di và Thúc Tề là hai
anh em vì nhường nhịn nhau mà không chịu lên ngôi sau khi vua cha mất. Hai người
bỏ đi. Vua mới là Võ Vương diệt nhà Trụ, lập nhà Chu. Bá Di và Thúc Tề không phục,
không thèm ăn gạo của nhà Chu, bỏ lên núi hái rau cỏ ăn để sống. Có người đời
gièm pha, nói rằng rau cỏ cũng mọc trên đất nhà Chu, hai ông bèn nhịn ăn đến chết.
Nước ta cũng có Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) khẳng khái chống giặc Pháp xâm
lăng, mặc dầu bị mù lòa nhưng mỗi khi nghe tin miền đất mình đang ở đã thuộc về
tay giặc Pháp, ông nhờ người cõng đi tỉnh khác và một mực từ chối mọi ân huệ và
đãi ngộ của người Pháp.
Ngô Khởi vì ham làm tướng mà cắt đầu vợ một cái rụp đem dâng
cho vua Lỗ Mục Công để bày tỏ lòng trung thành. Vợ của Mãi Thần chê chồng
nghèo, bỏ đi lấy chồng khác, đến khi thấy chồng cũ đã hiển đạt mà vẫn đối xử tử
tế với mình thì bà ta xấu hổ và nhảy xuống sông tự tử. Nàng Vạn Quốc Trinh mới
lấy chồng mấy ngày thì chồng là Thu Hồ Tủ có lịnh đi trấn nhậm xa nhà. Mấy năm
sau, Thu Hồ Tủ được thăng chức và nghỉ phép về thăm nhà, dọc đường thấy có một
thiếu nữ đang hái dâu rất đẹp. Chàng ta buông lời chọc ghẹo, người đẹp khinh bỉ
mắng cho một hồi rồi tức giận bỏ dở công việc hái dâu và chạy về nhà. Một lúc
sau, Thu Hồ Tủ cũng về đến nhà. Vợ chồng nhận ra nhau trong sự ngỡ ngàng: Vạn
Quốc Trinh thấy chồng mình chính là ông quan đi đường có máu dê ngoài ruộng
dâu. Nàng bèn giảng luân lý một hồi, cho rằng người chồng như vậy là không xứng
đáng, làm cho nàng cảm thấy nhục nhã lắm. Rồi nàng nhảy xuống giếng tự tử. Những
cái chết vừa kể trên đây, nếu xét theo quan niệm của chúng ta ngày nay, thì
cũng đã hơi khó thông cảm.
Cái chết nầy mới thật là quá đáng: một anh chàng tên là Vĩ
Sanh, người nước Lỗ, hẹn với tình nhân là hai người sẽ gặp nhau dưới gầm cầu.
Đúng giờ, chàng đến đúng điểm hẹn đợi. Nước cứ lớn dần mà người yêu không tới,
anh chàng vẫn cứ đứng yên ơ đấy cho đến khi nước ngập khỏi đầu chết luôn! Lại
thêm một cái chết lãng nhách! Tôi nhớ hồi tôi còn nhỏ nghe tuồng Phạm Công Cúc
Hoa từ dĩa nhựa 33 vòng hát bằng máy quây giây thiều có nhãn hiệu "con chó
ngồi trước cái loa". Phạm Công đi ra trận mà còn mang theo xác vợ mới chết
chưa kịp chôn, vai thì cõng con thơ, tay còn dắt thêm một đứa nữa. Tướng giặc
thấy vậy hỏi thì Phạm Công đáp rằng lệnh vua sai đi dẹp giặc không dám cãi tuy
đang lâm vào tình cảnh tang gia bối rối. Tướng giặc động lòng trắc ẩn, tự cắt đầu
đưa cho Phạm Công mang về dâng vua lập công. Theo tôi, vị tướng đó mới đúng là
người coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Theo sự giải thích của phân tâm học, người dễ tự tử là người
hết sức đa cảm, óc phán đoán kém và có tâm tính bất bình thường. Nhiều thi văn
sĩ không thiết tha với cuộc đời; họ sống bừa bãi không đếm xỉa đến việc giữ gìn
sức khỏe, buông thả trong nghiện ngập say sưa, một hình thức tự tử từ từ. Nếu họ
không chết vì một phát súng thì họ cũng kiệt sức ngã gục hay làm mồi cho bệnh
nan y hoành hành. Ernest Hemingway (1899-1961) đau ốm triền miên trong mấy năm
cuối đời đến mức chịu không nổi phải dùng khẩu shotgun tự kết liễu cuộc đời. Ba
nhà tiên phong sư tổ viết truyện ngắn Mỹ, Pháp, Nga là Edgar Allan Poe
(1809-1849), Guy de Maupassant (1850-1893) và Anton Chekhov (1860-1904) đều từ
giã cuộc đời trong hạng tuổi bốn mươi vì bệnh nan y.
Một trong những nguyên nhân của tự tử là do sự bắt chước, nhất
là trong giới trẻ. Một ghi nhận nữa là giới trẻ dễ bị ám ảnh bởi cái chết. Vì
thế, giới giáo dục và học đường ở Âu Mỹ rất chú trọng đến việc trấn an tâm thần
cho cả lớp, cả trường mỗi lần có một học sinh trong lớp, trong trường chết.
Theo thống kê, hằng năm có hơn một triệu người tự tử trên thế giới, hơn cả số
người chết bởi chiến tranh. Trong năm 2005, tại Mỹ số người tự tử cao gần gấp
đôi số người bị giết. Thống kê năm 2008 cũng cho thấy tỉ lệ tự tử trên thế giới
càng ngày càng gia tăng, nhất là ở các quốc gia châu Á. Theo Tổ Chức Y Tế Thế
Giới, số vụ tự tử ở Trung Hoa, Ấn Ðộ và Nhật Bản chiếm 40% trên tổng số của cả
thế giới.
Theo kết quả nghiên cứu khoa phân tâm học, những người sớm ý
thức về nỗi chết là những người bị mồ côi cha mẹ khi còn nhỏ. Khoảng trống tình
cảm ảnh hưởng tâm lý đứa trẻ, có khi tiếp tục đeo đẳng đến suốt đời. Đinh Hùng
là một nhà thơ luôn bị ám ảnh vì nỗi chết. Vũ Hoàng Chương gọi đó là "nguồn
thi hứng ảm đạm bi thương đến rùng rợn tê điếng cả tâm hồn". Đinh Hùng là
con út trong số sáu anh chị em trong gia đình: Lân, Loan, Yến, Hồng, Oanh,
Hùng, chung sống đầm ấm sung túc ở gia trang gọi là trại Trung Phụng thuộc ngoại
ô Hà Nội. Năm Đinh Hùng 11 tuổi, (1931) chị Hồng của ông là một hoa khôi Hà Nội
đã nhảy xuống hồ Trúc Bạch tự trầm vì tình. Chỉ mấy tháng sau, bố của ông cũng
lâm bệnh mà chết lúc chưa đầy 50 tuổi. Ba năm sau, chị Loan của ông cũng mất.
Người chị kế của Đinh Hùng là Oanh sau nầy thành hôn với thi sĩ Vũ Hoàng
Chương. Sau khi Đinh Hùng qua đời vì bệnh ung thư ở tuổi 47 vào năm 1967, Vũ
Hoàng Chương nhận xét qua một bài viết: "Ba đợt sóng đen tối bi thảm ấy đã
ồ ạt xô vào tâm trí nhà thơ của chúng ta biết bao nhiêu ý nghĩ ghê gớm về tử thần.
Trại Trung Phụng quả là một gia tài đẫm lệ; bộ xương khô và lưỡi hái dài đanh
ác lúc nào cũng như lẩn quất trong hàng cây khế, cây cam. Đinh Hùng tự coi mình
như một điềm gỡ."
Nhưng phải nói cái chết vì bệnh lao của người yêu đầu tiên
tên Liên vào năm 1940 mới làm cho Đinh Hùng đau đớn tột cùng. Từ đó, nỗi chết
đã trở thành nguồn thi hứng không rời, là người bạn thiết cùng khởi đi vào sự
nghiệp thơ của Đinh Hùng. Chẳng những nó không buông tha ông mà lại còn trở nên
áp đảo tinh thần và tâm trí ông một cách mãnh liệt hơn, hầu như là làm chủ ông,
kiểm soát hoàn toàn mọi suy tưởng của ông như một người tình mù quáng trong
tình yêu suốt hơn mười năm dài. Ông làm ra nhiều bài thơ nói về nỗi chết với
các tựa đề như Gửi Người Dưới Mộ, Màn Sương Linh Giác, Tìm Bóng Tử Thần, Cầu Hồn,
Thoát Duyên Trần Cấu, v.v.. Sau đây là một số trích dẫn trong tập thơ Mê Hồn Ca
của ông:
Qua xứ ma sầu ta mất trí
Thiêu đi tập sách vẽ hoa nguyền
Trời ơi! Trời ơi! Làn tử khí
Lạc lõng hương trầm đóa Bạch Liên
.
Từ cố đô hồn lạc xứ về đây
Bao hài cốt nổi trôi bờ biển khác
Ngàn năm chưa thoát cơn mê hoảng
Ta thác, sinh vào ngọn hải đăng
Hỏi bao quần đảo vừa ly tán
Trần tục là đâu trổi đất bằng
.
Cuốí trời loạn thương một vì sao mọc
Ta hát lên chân nhảy điệu thần kỳ
Trơ về đây xơ xác mảnh tàn y
Giữa hoang địa hiện hình tòa u ngục
Bừng mắt dậy lửa hồi sinh đỏ rực
Thịt xương về trong cổ mộ xôn xao
Hỏa thiêu rồi, làn tử khí dâng cao
.
Trời cuối thu rồi em ở đâu
Nằm trong đất lạnh chắc em sầu
Thu ơi đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu
.
Đi đi cho hết dương trần
Ngày mai tìm bóng tử thần mà yêu
.
Và xác thân anh giữa cuộc đời
Tiêu ma vào thạch động làn môi
Vì trong cấm địa hàm răng ấy
Huyệt lạnh kề bên mỗi nụ cười
Đến năm 1942, người bạn văn nghệ thân thiết của Đinh Hùng là
Thạch Lam lại cũng từ giã cõi đời vì bệnh lao quái ác. Đinh Hùng mất vào năm
1967 vì bệnh ung thư ở tuổi 47.
Một thi sĩ nữa viết ra nhiều bài thơ mang toàn những hình ảnh
ghê rợn của chết chóc, hồn oan, xương máu là Chế Lan Viên. Nhưng những hình ảnh
đó chỉ có tính cách ẩn dụ và tượng trưng, mà tác giả dùng để nói lên ý tưởng
liên quan đến vấn đề tâm linh và siêu hình:
Hỡi chiếc sọ, ta vô cùng rồ dại
Muốn giết mi trong sức mạnh tay ta
Để những giọt máu đào còn đọng lại
Theo hồn ta trôi chảy những lời thơ
.
Ta muốn cắn mi ra từng mảnh
Muốn điên cuồng nuốt cả khối xương khô
Để níu lại cả một thời xưa cũ
Cả một dòng năm tháng đã trôi qua
(Cái Sọ Người)
Ta sẽ uống máu loang cùng tủy chảy
Ta sẽ nhai thịt nát với xương khô
Lấy hơi ma nuôi sống tâm hồn mơ
Luyện âm khí chuyển rung bao mạch máu
.
Hãy tìm cho tôi nấm mộ hoang tàn
Đào đất lên, cạy cả nắp hòm săng
Hãy chôn chặt thân ta vào chốn ấy
(Máu Xương)
Đó là năm 1940, khi nhà thơ còn trong trắng ngây thơ, tuổi
chỉ vào khoảng đôi mươi, trước khi theo cộng sản. Sau nầy ông dẹp ba cái thơ
tâm linh siêu hình, quay qua làm thơ nâng bi bác và đảng mà thôi. Xuân Diệu
cũng ở vào trường hợp tương tự với ông Chế Lan Viên, cho nên mỗi lần nhớ đến
câu thơ Yêu là chết trong lòng một ít của ông ta, tôi cứ nghĩ lệch ý của ông là
"yêu đảng cộng sản". Sống với cộng sản thì coi như đã chết rồi chứ
còn gì nữa, như trong bài Tình Mai Sau, ông kêu:
Ngày thuở ấy, lâu rồi, tôi đã chết,
Tháng năm qua chôn lấp mộ hoang tàn.
Hòa với đất, mình tôi thôi đã hết,
Nhưng hương hồn còn luyến ở không gian.
Cái chết chắc cũng đã từng nhiều lần ám ảnh ông; điều đó có
thể chứng minh qua bài Hư Vô sau đây:
Nhưng mà tôi sẽ chết, than ôi!
Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời,
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất,
Hai tay chín móng bám vào đời. (Thắc mắc riêng của tôi:
"Còn một móng nữa ở đâu cà? Hay là ông bị cùi sứt một móng rồi?)
Kẻ uống tình yêu dập cả môi,
Nhưng mà tôi sẽ chết, than ôi!
Tóc ngồi mai mốt không đen nữa,
Tóc trẻ khô đi, mặt xấu rồi.
Già nua đã bó sẵn hai tay,
Hôm ấy ta trông gượng ánh ngày.
Bệnh hoạn cắn xương như rắn rúc,
Ta ngồi góp lực nhớ hôm nay.
Chóng chóng ngày thơ vụt đến xuân,
Mau mau ngày mạnh yếu phai dần
Ngày ngày vội vội mang sương đến
Tuổi chết đây rồi bóng lụt chân.
Đêm kia ta thức một mình đau,
Nghe tiếng giờ đi, não dạ sầu.
Bạn ở bên mình duy ngọn nhỏ,
Con đèn chống chọi với đêm thâu.
Tôi rung như lá, tái như đông,
Trán chảy mồ hôi, mắt lệ phồng.
Năm đẩy, tháng dồi, tôi đã đến
Trước bờ lạnh lẽo của hư không.
Các nhà thơ tiền chiến của Việt Nam như Chế Lan Viên, Nguyễn
Bính, Thâm Tâm có nhiều suy tư về nỗi chết cũng giống như nhóm thi sĩ "The
Graveyard Poets" thời tiền lãng mạn của Anh vào thế kỷ thứ 18. Chế Lan
Viên viết Hư Vô; Thâm Tâm viết Hư Không:
Điệu kèn ai oán thổi lòng thương
Và tiễn hồn oan cữu nặng đòn
Không một vòng hoa phong sắc lạnh
Trong nhà táng gỗ lở màu son.
Thất thểu xe linh ngược gió hàn
Đôi bà buồn ngó lại tuần nhang
Im như bóng lẻ người cô lão
Đi rắc tang rơi vạn thỏi vàng.
Tiếng khóc thưa trong một đám người
Ấm hơi lửa thuốc thắm trầu môi
Dăm tà áo trắng như sương rủ
Ngơ ngác dăm thân trẻ sụt sùi.
Hồi lệnh vang đưa rộn khắp lòng
Đã truyền tin lấp huyệt tiêu vong
Một tuần nhang cuối đôi lời viếng
Là hết, nằm yên xác lạnh lùng.
Mai mốt còn ai kể với nhau
Ngày xưa có một lũ khăn nâu
Dăm người tóc bạc, mươi hai trẻ
Đưa mấy em thơ trắng mái đầu.
Em nhỏ đưa tang, lũ láng giềng
Đưa hồn hàng xóm nắm hương đen
Thế là chôn hết tài năng cả
Một kiếp thơ trinh xuống cửu tuyền.
Nỗi ám ảnh bởi thần chết tưởng đâu sẽ vơi đi sau khi cuộc
chiến Việt Nam chấm dứt, khi tiếng bom nổ, tiếng đạn reo không còn nghe thấy
trên quê hương. Nhưng dưới sự "quản lý" của cộng sản, thần chết đầy
ma lực dang rộng cánh tay dài hung hãn sát hại và cướp đi mạng sống nhiều hơn.
Chết vì đói khát, chết vì lao động khổ sai, chết vì những trận đòn thù tra tấn
dã man. Chết giữa rừng thiêng nước độc của trại tù, chết nơi đèo heo hút gió của
vùng kinh tế mới, chết trên đường tìm tự do khi vượt biển Đông, chết dưới bàn
tay hải tặc man rợ. Chết vì cuộc đời bất hạnh. Vì thế, nỗi ám ảnh bởi thần chết
vẫn còn nơi người sống sót. Đến được bến bờ tự do rồi, lòng nhủ thầm "phen
nầy ta thoát rồi", thế mà nằm mơ vẫn thấy chập chờn nỗi chết trên khắp quê
hương:
Giấc mơ ta lại thấy Việt Nam,
Thấy núi rừng xương trắng rợn rùng,
Máu như mưa đổ tràn sông biển,
Bạn bè xưa hò réo nhạc âm cung.
Ngày không mặt trời, đêm giông bão cuốn,
Thành phố đen sâu hút vực trầm luân.
Em tả tơi, tóc sũng gió mưa buồn,
Ngồi hát thảm khúc ca đời lạnh buốt.
Lối cũ em đi, cây sầu thắp ngọn.
Bóng âm ty, từng ngọn cỏ may khô.
Chân em bước đất vươn chồi nụ oán.
Mõ đầu lâu, ai gõ gọi hồn xưa
Dẫy nến nhạt soi mặt người quỉ ám
Đêm lung linh, gió rú áo cơm thôi
Vang tiếng khóc, đá rung lời nguyện xám.
Bóng cờ sao vùng vẫy giữa thây tươi
Ta thấy xích xiềng gông khua ngục thất
Đoàn tù đi hình sống những thây ma
Trong đói khát nhú xanh mầm nụ chết
Tiếng người xưa chìm khuất chút âm xa.
Biển réo ta sóng dậy đất điêu tàn
Muôn mảnh vỡ núi tan thời hủy rã
Và lửa cháy đã thiêu trời sắc đỏ
Đã thiêu người tận thế Nam.
(Mơ Thấy Việt Nam - Nguyễn Ngọc Thuận, 1982)
Gọi người trên sóng đêm đêm
Thịt da dãi nguyệt, tóc mềm rong rêu
Đâu đây còn vọng tiếng kêu
Xé trời buốt giá biển chiều mênh mông.
Gọi người nhạt thắm phai hồng
Liễu xanh vùi sóng biển đông tủi hờn
Gọi người đáy huyệt cô đơn
Ngàn năm mây nước chập chờn bóng trăng.
Gọi người thủy táng tuyết băng
Hồn trinh ơi, ngọn hải đăng sóng gào!
Gọi người chỉ thấy trăng sao
Đêm đêm nhỏ lệ khóc vào thiên thu!
Gọi người xõa tóc trăng lu
Cắn môi bật máu hận thù trào lên!
Biển sâu thăm thẳm ưu phiền
Hồn ơi, gối sóng về miền quạnh hiu!
(Gọi Người Biển Đông - Hồ Công Tâm) (Viết cho những nạn nhân
đã chết trên biển cả vì chạy giặc Cộng Sản.)
Sự suy tưởng về cái chết vẫn hiện diện thường trực trong trí
óc ta khi ta đã an cư nơi hải ngoại, đã tìm được một cuộc sống tương đối đầy đủ
về vật chất. Ước vọng thầm kín của ta vẫn là được gửi nắm xương tàn nơi đất mẹ.
Điều đó không nhất thiết có nghĩa là ta phải về lại quê hương để chờ chết. Ta vẫn
có thể tiếp tục sống nơi miền đất tạm dung cho đến khi xuôi tay nhắm mắt. Nhưng
hãy hỏa thiêu thân xác ta rồi đem nắm tro tàn về gieo rắc xuống dòng sông quê
cũ trên đất mẹ:
.
Chết là hết, cần gì cáo phó,
Đừng làm ma, đừng có cầu siêu.
Rồi đây, sau cuộc hỏa thiêu,
Xác phàm, giữ lại ít nhiều tro than.
Mai mốt, nhớ phải mang về nước,
Và làm theo nguyện ước của ta
Là đem rắc xuống Hồng-hà
Cho tan vào lớp phù sa đỏ ngầu
.
Được như thế, ngàn sau mãi mãi
U hồn ta chẳng phải vấn vương
Chẳng còn khắc khoải canh trường
Được về cùng với quê hương mặn nồng.
(Di Chúc - nhà thơ, nhà giáo Bảo-Vân Bùi Văn Bảo)
Lê Chiêu Thống, vị vua cuối cùng của triều đại nhà Hậu Lê,
lưu vong và lánh cư bên Trung Hoa, trước khi mất năm 1793 đã từng trăn trối
nguyện ước muốn hài cốt của mình phải được mang về chôn cất bên cạnh lăng mộ
tiên vương. Di mệnh của ông mãi mười ba năm sau mới được thực hiện. Khi bốc mộ
ông để cải táng, người ta ngạc nhiên thấy trái tim của ông vẫn chưa tiêu tan,
có lẽ vì tấm lòng hoài vọng cố hương của ông tha thiết quá.
Có cùng ước vọng gửi nắm xương tàn nơi đất mẹ, nhưng nhà thơ
Du Tư Lê di chúc táo bạo hơn:
Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển
Đời lưu vong, không cả một ngôi mồ
Vùi đất lạ, thịt xương e khó rã
Hồn không đi sao trả lại quê nhà.
Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển
Nước ngược dòng sẽ đẩy xác tôi đi
Bên kia biển là quê hương tôi đó
Rặng tre xưa muôn thuở vẫn xanh rì.
Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển
Và nhớ đừng vội vuốt mắt cho tôi
Cho tôi hướng vọng quê tôi lần cuối
Biết đâu chừng xác tôi chẳng đến nơi.
Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển
Đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi
Những năm trước bao người ngon miệng cá
Thì sá gì thêm một xác cong queo.
Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển
Cho tôi về gặp lại các con tôi
Cho tôi về nhìn thấy lệ chúng rơi
Từ những mắt đã buồn thêm bóng tối.
Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển
Và trên đường, hãy nhớ hát quốc ca
Khi tôi chết, nỗi buồn kia cũng chết
Đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn.
(Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển - Du Tư Lê)
Ý niệm rõ nét nhất về nỗi chết lần đầu tiên đến với tôi năm
tôi lên tám tuổi, cái tuổi đủ biết nhận thức rõ những điều phải trái thông thường.
Thuở đó tôi còn ở dưới làng quê bên bờ kinh Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho (đến thời Đệ
Nhất Cộng Hòa đổi tên là Định Tường, và bây giờ Việt Cộng đổi tên nữa thành Tiền
Giang). Nhà ngoại tôi nằm giữa một khu vườn rộng có mương cái sau nhà nối với
những mương rãnh nhỏ để cung cấp nước cho những liếp vườn trồng đủ loại cây ăn
trái. Một buổi chiều, tôi dắt đứa em trai kế 4 tuổi ra ruộng coi đá banh. Thuở
ruộng biến cải thành sân banh cách nhà ngoại tôi khoảng năm trăm thước nằm ngay
sát phía bên kia quốc lộ 4 nối liền tỉnh lỵ Mỹ Tho với Gò Công.
Mải mê coi chưa hết trận đấu, tôi đã thấy một người vác sau
lưng một đứa nhỏ chổng ngược đầu, chạy lấp xấp trên đường cái từ hướng nhà ngoại
tôi ra quốc lộ, theo sau là năm bảy người nữa, trong đó có bà ngoại tôi và mẹ
tôi. Tôi trố mắt nhìn, lòng đầy lo lắng, tự hỏi chuyện gì đang xảy ra. Đứa nhỏ
được đỡ để nằm xuống bên lề đường. Trời ơi! Bích Ngọc! Đứa em gái 2 tuổi của
tôi! Nó té mương chết đuối.
Trong lúc mẹ tôi đang bận rộn với công việc lo bữa cơm chiều,
Bích Ngọc vẫn lẩn quẩn một bên nơi nhà bếp. Chỉ trong một khoảnh khắc, nó đã lẫm
đẫm đi ra sàn nước và trợt chân té úp mặt xuống nước. Lúc ấy có một người thợ
đang lợp lại mái nhà cho ông ngoại tôi. Từ trên mái nhà, ông ta nhìn thấy, vừa
tri hô lên, vừa vội vã tuột xuống đất và lội xuống mương bồng em tôi lên. Ông
vác nó ngược đầu và chạy lấp xấp để xốc nước ra theo như cách cấp cứu áp dụng
thời bấy giờ. Nhưng em tôi vẫn không hồi tỉnh lại. Em tôi đã chết. Một cái hòm
nho nhỏ được đóng vội ngay tại nhà, cái xác bé bỏng tròn trịa của em tôi được bỏ
vô đó rồi rơm được phủ lên và nắp hòm được đóng lại. Những nhát búa nện đinh chẳng
khác nào đang nện thẳng vào những trái tim đau đớn của mẹ, ngoại, và tôi.
Trong giây phút quá đỗi đau buồn, bà ngoại tôi đã nói với
tôi: "Phải chi con đừng mê đi coi đá banh mà ở nhà coi chừng em thì đâu ra
nông nỗi nầy!" Tôi là một thằng bé ủy mị nên vừa nghe vậy là khóc rống
lên, cõi lòng tràn đầy mặc cảm hối lỗi ăn năn. Từ đó tôi cứ nghĩ em gái tôi té
mương chết là do lỗi ở tôi một phần. Phải chi., phải chi ., âm vang hai tiếng ấy
cứ lẩn quẩn bên tai. Có lẽ vì thế mà tôi đã trở thành nhút nhát, thiếu tự tin,
làm việc gì cũng phập phồng lo sợ phạm lỗi lầm.
Sau cái chết của em tôi không lâu, tôi chứng kiến một cái chết
thảm khốc và ghê rợn của một người có họ xa. Ông Sáu bị Việt Minh xử tử. Tội của
ông? Mời quận trưởng vào nhà ngồi nghỉ và uống nước trong khi tài xế của ông lo
thay một bánh xe jeep bị bể. Đêm đến, Việt Minh bắt ông ra trước sân nhà chặt đầu
và để lại một tấm bảng trên cái thây. Tấm bảng ghi hai chữ: Việt gian!
Từ dạo ấy đến nay, trong cuộc đời dâu bể, tôi đã chịu tang
hoặc chứng kiến biết bao nhiêu là cái chết nữa của người thân, của bạn bè, của
chiến hữu, của những người không quen, của tha nhân và của cả quê hương đất nước
tôi, ít ra là trong tâm tưởng. Và giờ đây, khi ngọn nến đời đã đốt cháy gần hết,
tôi chiêm nghiệm về nỗi chết thường xuyên hơn: Quanh ta nến tắt đèn tàn/ Chợt
nghe tiếng thở ngỡ ngàng buồn thêm.
Quả thật lần lượt có nhiều ngọn nến thi nhau tắt chung quanh
tôi. Khu vườn nhà ngoại đầy cây trái ngày xưa thu hẹp lại nhường chỗ cho những
nấm mồ. Khu nghĩa địa, mà tôi gọi là "xóm ấy", cứ đông dần. Trái lại,
thế giới có những tên tuổi và những khuôn mặt quen thuộc của tôi cứ ngày càng
thu hẹp, vắng vẻ và buồn tênh. Thái Hằng, Hoài Bắc Phạm Đình Chương, Út Trà Ôn,
Thanh Nga, Hùng Cường, Sĩ Phú, Ngọc Lan, Trần Văn Trạch, Hoàng Thi Thơ, Nhật
Trường Trần Thiện Thanh v.v. Người đi, một nưa hồn tôi mất; Một nửa hồn tôi bỗng
dại khờ! Thời đại của tôi ngắn dần lại cho đến khi tôi sẽ gặp lại họ ở cõi hư vô.
Tôi không cho đó là một thái độ bi quan yếm thế mà trái lại,
tôi thầm cảm ơn và cảm thấy may mắn mình còn sống đến ngày hôm nay trong khi
bao nhiêu người đã chết, nhất là kể từ ngày quốc nạn 30/4/1975. Chắc nhà thơ
chiến đấu Lê Khắc Anh Hào cũng có cùng quan điểm này qua một phân đoạn của bài
thơ "Tôi Xót Thương Người Chậm Bước Sau":
Tôi đã qua cầu trọn khổ đau
Đã kinh lượn sóng phủ qua đầu
Cầm như đã chết trong lòng nước
Đã tưởng thân chìm đáy biển sâu.
Có một nhận thức rõ ràng như vậy tôi mới có thể bình thản chấp
nhận phần đời sống còn lại, xem nó chỉ là một tiến trình thường hằng tự nhiên,
xem như tôi đang hưởng món tiền lời của vốn liếng đời sống đã đầu tư . Và khi
nào đồng hồ đời người gióng lên hồi chuông chung cuộc, tôi sẽ mỉm cười sẵn sàng
chui vào áo quan:
Làm lính anh đi hàng đầu
Tổng thống ra lệnh, anh mau đầu hàng
Khi sống không được làm quan
Khi chết anh mặc áo quan như người. (PH)
Hàng đầu, đầu hàng. Làm quan, áo quan. Tôi chơi chữ một tí
cho vơi bớt không khí chết chóc đó thôi chứ bạn cũng thừa hiểu chữ
"quan" ở câu thơ trên có nghĩa là quan chức nhà nước hay quân đội;
còn chữ "quan" của câu thơ dưới có nghĩa là quan tài, là cái hòm để
chôn người chết. "Mặc áo quan" là từ ngữ đứng đắn, dạng thức khẩu ngữ
nôm na của nó là "mặc sơ-mi gỗ", dạng thức bóng bẩy trong thơ nhạc là
"hòm gỗ cài hoa" như trong bài nhạc "Kỷ Vật Cho Em" của Phạm
Duy phổ thơ của Linh Phương, một thi sĩ quân đội:
"Em hỏi anh... em hỏi anh... bao giờ trở lại..?
Xin trả lời... xin trả lời... mai mốt anh về...
Anh trở về... có thể bằng... chiến thắng Plây-me...
Hay Đức Cơ... Đồng Xoài, Bình Giả...
Anh trở về... hàng cây nghiêng ngả...
Anh trở về... có khi là... hòm gỗ cài hoa..."
Hòm gỗ cài hoa khi dành cho một trinh nữ chết trẻ được nhà
thơ Nguyễn Bính khoác lên một màu trắng, màu của tang tóc và cũng là màu của
trong trắng:
Sáng nay vô số lá vàng rơi
Người gái trinh kia đã chết rồi
Có một chiếc xe màu trắng đục
Hai con ngựa trắng xếp hàng đôi
Đem đi một chiếc quan tài trắng
Và những vòng hoa trắng lạnh người
Theo bước, những người khăn áo trắng
Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi.
(Viếng Hồn Trinh Nữ, Nguyễn Bính)
Chết đột ngột ở tuổi thanh xuân và đang trên đỉnh cao danh vọng
luôn luôn được người đời thương tiếc, tưởng nhớ, tôn thờ lâu dài và trở thành bất
tử. Hình ảnh của Elvis Presley, Marilyn Monroe, Lý Tiểu Long, John Lennon, Lady
Diana chắc chắn sẽ sống mãi trong lòng người mến mộ đồng thời cùng thế hệ. Tôi
không tin thuyết thiên tài yểu mệnh. Tất cả chỉ là một sự ngẫu nhiên. Mahatta
Ghandi, Phát Chánh Hy, Anwar Sadat, Martin Luther King, John Kennedy, Ngô Đình
Diệm, bị ám sát chết chỉ vì thói thường người làm chính trị hay có kẻ thù. Được
triệu người khâm phục không sao. Bị một người ghét cũng có thể mất mạng.
Bây giờ tôi mới chợt để ý là trong số bốn thứ khổ sinh, lão,
bịnh, tử của đạo Phật, chỉ có tử là có nhiều từ ngữ để chỉ gọi nhất. Đồng nghĩa
với sinh có ra đời, chào đời, lọt lòng mẹ; đồng nghĩa với lão có già, gần đất
xa trời, hết xíu quách, sụm bà chè; đồng nghĩa với bịnh có đau yếu, bệnh tật, vỏn
vẹn chỉ có từng ấy chữ để nói. Còn đồng nghĩa với tử có chết, qua đời và nhiều
cách nói khác lắm, tùy theo trường hợp.
Dùng một cách chính thức trang trọng như thường thấy trong
các cáo phó phân ưu, chia buồn có: tạ thế, từ trần, mệnh chung, mãn phần, thất
lộc. Vua chúa chết thì gọi là băng hà. Khi người chết được chôn cất thì người
ta thường dùng nhóm chữ "đến nơi an nghỉ cuối cùng". Theo quan niệm
Khổng giáo, sống là nhập thế hành đạo, là có trách nhiệm với vua, cha mẹ, gia
đình, bạn bè, công ăn việc làm, nên luôn luôn bận rộn với cuộc sống. Sách Cổ Học
Tinh Hoa có chép chuyện ông Tử Cống hỏi đức Khổng Tử rằng chừng nào mới được
nghỉ ngơi, đức Khổng Tư đáp rằng "Lúc nào ngắm thấy cái huyệt đào nhẵn nhụi,
trông thấy cái mồ đắp chắc chắn, ngó thấy người đi đưa cách biệt hẳn mình, ấy
là lúc được nghỉ đó!"
Văn hoa bóng bẩy hơn có: an giấc ngàn thu, trút hơi thở cuối
cùng, từ giã cõi đời, đi vào lòng đất lạnh, trở về với cát bụi, gởi nắm xương
tàn, ra người thiên cổ, xuôi tay nhắm mắt, và còn nhiều nữa, như câu "Anh
không chết đâu em . Anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm đen" trong một bài nhạc của Trần
Thiện Thanh, hoặc "Rồi anh sẽ dìu em tìm thăm... mộ bia kín trong nghĩa địa
buồn... Bạn anh đó đang say ngủ yên... Xin cám ơn... Xin cám ơn... người nằm xuống..."
trong một bài nhạc khác. Hay như trong bài thơ sau đây:
Ta sinh từ đất, mai về đất
Bỏ lại sau lưng nỗi muộn phiền
Còn chút niềm vui ta đã mất
Ai người nhặt được giữ thầm riêng
Ta sinh từ đất, mai về đất
Bỏ lại sau lưng nỗi nhục nhằn
Còn những ngày không ai sẽ cất
Cất rồi có giấu được ăn năn
Ta sinh từ đất, mai về đất
Bỏ lại sau lưng chút nợ nần
Người sẽ cùng ta rồi cũng khuất
Hỏi thầm đáy huyệt gặp nhau không?
(Mai Về Đất, Vương Đức Lệ)
Người yêu nước Trần Cao Vân trước khi bị tử hình vì thất bại
trong cuộc khởi nghĩa phò vua Duy Tân chống Pháp có làm bài thơ chất ngất hào
khí xem cái chết cho nước nhà là một niềm vinh hạnh:
Đứa nào muốn chết, chết như chơi
Chết vị non sông, chết vị trời
Chết thảo, bao nài xương thịt nát
Chết ngay, há nại cổ đầu rơi
Chết trung, tiếng để ngoài muôn dặm
Chết nghĩa, danh lưu đến vạn đời
Chết được như vầy là hả lắm
Ta không sợ chết, hỡi ai ơi!
Nói chung, con người khi sống một cuộc đời êm đẹp bình thường
ai cũng sợ chết. Ai cũng muốn sống yên ổn, nếu không chúng ta đã không bỏ nước
ra đi khi cộng sản tràn vào miền Nam. Người tị nạn liều chết khi vượt biển bằng
những chiếc thuyền mỏng manh. Họ sợ cái sống trong đọa đày mà quên cái chết
trong hiểm nguy. Chết do tự sự lựa chọn của mình vẫn thích hơn là bị bắt buộc
phải chết. Vì thế người ta hô hào chết cho tự do.
Nguyên nhân khiến cho người ta khi về già hay tìm về với đức
tin là vì sự mong ước và hy vọng có một đời sống khác sau khi chết. Họ nghĩ rằng
đức tin có thể cứu rỗi linh hồn. Vì thế những lời sau cùng thường nhắc đến thượng
đế. Sống gởi thác về là câu hay nói của người già, dù về đâu vẫn còn là một điều
rất mơ hồ.
Hồn lìa khỏi xác chưa hẳn là hoàn toàn chết, vì theo kết quả
của nhiều cuộc nghiên cứu tỉ mỉ và sâu rộng có tính cách khoa học, người ta đều
nhìn nhận các hiện tượng cận tử, xuất hồn và chết đi sống lại là có thật. Những
người trở về từ cõi chết nầy hầu hết đều kể lại những kinh nghiệm tương tự
nhau; những gì họ chứng kiến có nhiều điểm giống nhau. Điều mà họ nói đến nhiều
nhất là cảm giác nhẹ hẫng trôi lướt trong không gian mờ ảo như một đám sương mù
dày đặc (I must go in, the fog is rising, lời cuối cùng của nữ thi sĩ Emily
Dickinson nói trước khi chết năm 1886) và đi vào một con đường hầm dài hun hút
(Tôi thấy ánh sáng đen, văn hào Pháp Victor Hugo nói trước khi chết năm 1885),
cuối đường hầm là vùng hào quang chói lọi đẹp đẽ vô cùng (It is very beautiful
over there!, nhà phát minh Thomas Edison nói trước khi chết năm 1931) nơi đó họ
gặp lại những thân nhân đã chết rồi có một mãnh lực vô hình nào đó thôi thúc họ
trở lại với sự sống. Đối với những người đã chết hụt một lần, nỗi chết không
còn đáng sợ nữa vì họ tin có linh hồn vĩnh cữu và thân xác chỉ là tạm bợ. Họ sống
cuộc đời còn lại một cách thanh thản hơn.
Chết dùng với màu sắc tôn giáo và đức tin có: qui tiên, viên
tịch, về cõi Phật, về nước Chúa, theo ông theo bà, tiêu diêu nơi miền cực lạc.
Con biết có một linh hồn trong xác
Khi xác con tàn, hồn vẫn phiêu diêu
Không hóa kiếp cũng là mây tản mác
Cùng đời đời ẩn ức nỗi thương yêu
(Mây, Ý Yên)
Chết dùng trong thời chinh chiến có: tư trận, chết trận, tử
thương, hi sinh vì tổ quốc, vị quốc vong thân, da ngựa bọc thây, phơi thây
ngoài chiến địa, bỏ mạng nơi sa trường.
Được tin mầy chết trên đồi
Tao nghe lạnh cóng đất trời chung quanh
Hồn ly viễn rộn đêm thanh
Qua sương trăng rỉ máu tanh khắp người
Nên thênh thang ngửa cổ cười
Không khóc được nên giọng cười điêu linh
Mày yên xác cuộc vong tình
Rừng hoang vu với một hình hài điên
Mây về chiều xuống triền miên
Nhớ nhau xin hãy xuôi miền cố hương
Đêm quằn quại giữa tha phương
Đốt hơi thuốc đắng vọng hương hồn mầy.
(Khi Nghe Tin Bạn Tử Trận - Huỳnh Liễu Ngạn)
Một nấm mồ vô chủ không tên bên bìa rừng, một nghĩa trang với
hàng hàng lớp lớp bia mộ, nơi an nghỉ cuối cùng, chốn an giấc ngàn thu, lằn
ranh ngăn cách hai thế giới âm dương bao giờ cũng gợi một hình ảnh trang nghiêm
và buồn thảm. Sè sè nấm đất bên đàng, Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh của
ngôi mộ Đạm Tiên khiến cho tấm lòng đa cảm của Kiều phải ngậm ngùi nhỏ lệ khóc
người xưa. Tâm hồn thi nhân dễ dàng thổn thức trước người bạc phận, vấn vương nỗi
niềm thắc mắc tha nhân nằm dưới mộ:
Một nấm mộ bia đã ố hoen
Bên rừng hiu quạnh chẳng nhang đèn
Một bông hoa dại luồn khe lá
Thương tiếc ai sầu giấc lãng quên.
(Mộ Tháng Tư, Nguyễn Sĩ Tế)
Ai đó thây chôn ba tấc đất? Ai nằm yên nghỉ giấc ngàn thu?
Người sống luôn luôn chạnh lòng phân vân. Bước vào nghĩa trang, khách viếng
không khỏi để mắt nhìn các bia mộ và tò mò muốn tìm hiểu lai lịch người chết.
Khách thương cảm hơn cho người chết trẻ ở tuổi thanh xuân, khách ngậm ngùi hơn
cho người chết vô thừa nhận không tên tuổi:
..
Người nằm dưới mả, ai ai đó?
Biết có quê đây hay vùng xa?
Hay là thuở trước kẻ cung đao?
Hám đạn, liều tên, quyết mũi dao.
Cửa nhà xa cách, vợ con khuất,
Da ngựa gói bỏ lâu ngày cao.
Hay là thuở trước kẻ văn chương?
Chen hội công danh, nhỡ lạc đường.
Tài cao, phận thấp, chí khí uất,
Giang hồ mê chơi, quên quê hương.
Hay là thuở trước khách hồng nhan?
Sắc sảo khôn ngoan, trời đất ghen.
Phong trần xui gặp bước lưu lạc,
Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn.
Hay là thuở trước khách phong lưu?
Vợ con đàn hạc đề huề theo.
Quan san xa lạ đường lối khó,
Ma thiêng nước độc phong sương nhiều.
Hay là thuở trước bậc tài danh?
Đôi đôi lứa lứa cũng linh tinh.
Giận duyên tủi phận hờn ân ái,
Đất khách nhờ chôn một khối tình.
Suối vàng sầu thảm biết là ai?
Mả cũ không ai kẻ đoái hoài!
Trải bao ngày tháng trơ trơ đó,
Mưa dầu nắng dãi giăng mờ soi.
.. (Mả Cũ Bên Đường - thi sĩ Tản Đà)
Sau quốc nạn 1975, nơi nào có trại tù cộng sản là nơi đó có
nhiều nấm mộ nông vội vùi thây người quân nhân VNCH sa cơ thất thế. Nắm xương
tàn chỉ một thời gian ngắn phơi lộ trên mặt đất vì mưa gió phũ phàng:
Rừng tràm xơ xác, sao khuya lạnh
Trăng khuyết hồn oan vật vã đau
Con nước mênh mông đồng Mộc Hoá
Mộ tù sóng ngập lút bờ lau.
Đêm đêm gió hú hồn rên rỉ
Vợ dại con thơ lạc thuở giờ
Sống đã đoạ đày không thiết sống
Chết làm ma đói vẫn bơ vơ.
Thuở ấy vùi nông, manh chiếu rách
Hương tàn khói lạnh vắng người thăm
Ngờ đâu dâu biển mà gang tấc
Riêng mối u hoài đến vạn năm.
Tù chết đã đành không sống lại
Hận thù chưa dễ chóng nguôi ngoai
Bạn tù năm cũ giờ trôi giạt
Còn nhớ hay quên một kiếp người.
(Mộ Tù Hoang Lạnh - Hồ Công Tâm)
Đặc biệt trong bài thơ được phổ nhạc "Tưởng Như Còn Người
Yêu", tác giả Lê thị Ý đã dùng từ ngữ phủ màu cờ" thật tượng hình và
sống động vô cùng:
Ngày mai đi nhận xác chồng
Say đi để thấy mình không là mình
Ngày mai đi nhận xác anh
Cuồng si thuở ấy hiển linh bây giờ
Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
Như môi góa phụ nhạt mờ vết son
Tình ta không thể vuông tròn
Say đi mà tưởng như còn người yêu
Phi cơ đáp xuống một chiều
Cung mây bàng bạc mang nhiều xót xa
Dài hơi hát khúc thương ca
Thân côi khép kín trong tà áo đen
Chao ơi thèm nụ hôn quen
Chong đèn hẹn sẽ đêm đêm đợi chờ
Bây giờ anh phủ màu cờ
Bây giờ anh phủ màu cờ
Em không nhìn được xác chồng
Anh thêm lon giữa hai hàng nến chong
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu.
(Cho dù Thanh Lan, Ý Lan hay Hương Lan mặc tang phục hát bài
nầy với ràn rụa nước mắt trong một dĩa DVD ca nhạc; khi bản nhạc dứt rồi, bên
tai tôi từ cõi vô thức dường như vẫn còn nghe những tiếng khóc nức nở uất nghẹn).
Dạng thức khẩu ngữ thông thường, nôm na và tiếng lóng của chết
có: mất, mất mạng, vong mạng, xuống lỗ, tiêu đời nhà ma, ngủm cù đèo, ngủm củ tỏi,
xí lắc léo, hui nhị tì, đi tàu suốt.
Chết cũng có nhiều trạng thái khác nhau: chết ngắc, chết
tươi, chết tốt, chết thảm, chết oan, chết nhăn răng, chết vô thừa nhận, chết bờ
chết bụi. Ta hãy nghe ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện mô tả một người bạn tù chết oan,
chết thảm, không siêu thoát, đêm đêm cứ hiện hồn về qua bài thơ "Nhìn Thần
Chết" sau đây:
Nhìn thần chết hiện lên dần từng bước
Thân tù cao không có lực xô lùi
Anh chết oan, chết thảm, chết dập vùi
Hồn khổ não không thể nào siêu thoát
Đêm đêm hiện về đây lạnh toát
Bộ đồ đen, bụng phù chướng bước đi
Anh ngước nhìn tôi, ra hiệu chẳng nói gì
Mặt bủng xám, mắt ngời lên sáng quắc
Anh bạn ơi, đời tù lao nghiệt khắc
Có thể nào đốt được nén hương thơm
Tặng hồn anh cùng quả trứng bát cơm
Để tỏ ý xót thương và tưởng niệm
Anh đã linh thiêng về đây ứng nghiệm
Thế đủ rồi, tôi hiểu, hãy nên lui
Thể xác anh, chuột khoét đã chôn vùi
Hồn anh hãy về vui nơi cực lạc
Lưu luyến chi đời tù lao đói rạc
Sống đọa đày thoi thóp, sống ngựa trâu
Chết như anh, hết khổ, có chi sầu
Anh vẫn nhìn tôi, bướng bỉnh lắc đầu
Coi mặt đất cực hình chưa hương đủ
Tùy anh đó, thôi chào anh, tôi ngủ!
Có biết bao nhiêu là oan hồn người tù miền Nam chết tức tưởi,
chết ấm ức, chết không nhắm mắt, chết trong cô độc lẻ loi, chết mà chưa được thốt
lên lời trăn trối trong những địa ngục cải tạo cộng sản. Họ chết vì tự kết liễu
đời mình, vì bị xử bắn, vì tra tấn, đày đọa tinh thần và thể xác, đói triền
miên, lao động khổ sai, thời tiết khắc nghiệt, và đau bệnh mà không có thuốc
men chữa trị. Trong hồi ký Vùng Đất Ngục Tù, tác giả Nguyễn Vạn Hùng kể kinh
nghiệm ông sống trong cõi chết như sau:
"Tuy không đích xác nhưng chúng tôi có thể nói khoảng
trên 80 phần trăm bệnh nhân được đưa lên Trạm Xá là ngủ một giấc vĩnh viễn,
không bao giờ về lại trại nữa. Đa số chết vì bệnh kiết lỵ, đau bao tử, trĩ ra
máu. Nhưng trên tất cả và chung cho tất cả là do thiếu dinh dưỡng mà phải lao động
nặng nên kiệt sức, nhuốm bệnh là không sao lướt qua nổi nữa. Tình trạng anh em
tù cải tạo chết quá nhiều khiến cho toán phục vụ bệnh xá 50 người chúng tôi vô
cùng mất tinh thần và hoảng sợ thường trực. Thần kinh người nào cũng căng thẳng
vì mỗi ngày phải chứng kiến bao nhiêu bạn hữu phải chết một cách tức tưởi. Được
ít lâu thì một số anh em trong toán tôi bắt đầu nói lảm nhảm, ánh mắt thất thần,
ngẩn ngơ như người say. Thực thế, hàng ngày chúng tôi phải tiếp xúc với những bệnh
nhân đang nằm chờ chết."
Ôi những oan hồn sinh Nam tư Bắc, nạn nhân của một cuộc trả
thù đê tiện nên dù đã chết nhưng vẫn còn xót xa cho người sống, cho núi sông:
Tưởng người dưới huyệt ngủ quên
Nên mai nở rộ trên nền mộ hoang
Đất linh phủ với hoa vàng
Mùa xuân đọng xuống mấy hàng lệ sa
Nằm đây anh khóc san hà
Nằm đây anh nuối em tà áo bay
Hồng trần từ thuở chia tay
Áo em lệ đẫm nát ngày ly chia
Mùa xuân vỡ nát lời thề
Súng gươm anh bỏ bên lề bại vong
Tử sinh kềm tỏa mấy vòng
Gió bay đầu mộ sắc hồng phù vân
Thôi rồi bỏ lại ái ân
Thôi rồi bỏ lại đường trần em côi
Buổi thăm nuôi, anh mất rồi
Lệ em đổ xuống mảnh đời vỡ tung
Thương đau ôi hận trùng trùng
Anh thân dưới mộ vô cùng xót em.
(Giọt Lệ Người Tù Dưới Mộ Mùa Xuân, Lê Khắc Anh Hào)
Nhạc sĩ Văn Cao có làm bài thơ "Chiếc Xe Xác Qua Phường
Dạ Lạc" vào năm 1945 diễn tả cảnh xe đi nhặt những xác vô thừa nhận vào
lúc đêm khuya ở Hà nội khi nạn đói khủng khiếp nhứt trong lịch sử xảy ra:
Ngã tư nghiêng nghiêng đóm lửa
Chập chờn ảo hóa tà ma
Đôi dãy hồng lâu mở cửa phấn sa
Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục
Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục
Tình tang não nuột khóc tàn sương
Áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường
Từng mỹ thể rạc hơi đèn phù thể
Ta đi giữa đường dương thế
Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây
Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy
Xác trụy lạc rủ bên thềm lá phủ.
Ở quê nhà, tôi đã quen nhìn thấy những thây người nhợt nhạt
tái mét, ruồi bu kiến đậu, trong nhà xác Chí Hòa, hoặc những thây người không
còn nguyên vẹn, bê bết bùn đất, máu me nơi chiến trận nặng mùi tử khí. Những
hình ảnh đó quả thật không đẹp đẽ tí nào mà còn đáng ghê sợ nữa. Ngược lại, qua
những lần đi tụng kinh cầu siêu và thăm viếng linh cữu người thân nơi nhà quàn ở
Bắc Mỹ, tôi thấy người chết đẹp quá, có khi đẹp hơn cả lúc còn sống nữa. Thì ra
xã hội Bắc Mỹ rất quí trọng nhân phẩm của con người khi sống như khi chết. Việc
tẩm liệm và chôn cất người chết đã trở thành một "ngành nghề cao cấp",
một nghệ thuật đòi hỏi tính chất chuyên môn đã mặc nhiên được chấp nhận.
Chuyên viên về xác chết của nhà đòn ở Bắc Mỹ tự động phanh
thây mổ bụng, móc ruột, cắt, kéo, cột, móc, nhồi, nhét, tỉa, xịt keo, thoa kem,
đánh phấn, trét sáp, tô màu, chưng diện đồ vía cho người chết mà không cần biết
thân nhân của người chết có bằng lòng hay không. Nhà đòn mặc nhiên trở thành một
thẩm mỹ viện thứ thiệt. Họ đã biến cái xác chết không hồn thành như một người
có hồn đang nằm ngủ trong quan tài, khoé môi tươi khẽ hé mở như đang mỉm cười,
trông trẻ ra vì các tì vết của thời gian như nếp nhăn, tàn nhang, đồi mồi trên
mặt đã được che lấp một cách khéo léo.
Mặc dù với những tiến bộ vượt bực của kỷ thuật truyền thông,
khi hầu như mọi bí mật của đời sống của con người được khám phá, phổ biến và
trình bày trên màn ảnh vô tuyến truyền hình và trên mạng lưới vi tính toàn cầu,
những gì xảy ra với cái thây người chết trong nhà đòn vẫn chưa được hoàn toàn
công khai hóa, nhất là công việc rút ruột. Người ngoài nghề chỉ biết thủ tục sửa
soạn tẩm liệm được tiến hành như mô tả sau đây. Thây người chết được đẩy bằng
băng-ca vào phòng sửa soạn có trang bị đầy đủ dụng cụ y khoa như là một phòng
giải phẫu trong bệnh viện. Những dụng cụ nầy gồm có dao mổ, kéo, mỏ vịt để
nong, kẹp, kim khâu, ống bơm, ống hút, thau, chậu, vân vân.
Các sản phẩm hóa học gồm có đủ loại bình xịt, dung dịch, kem
thoa, dầu, bột dùng để làm mềm cơ thịt, làm co hoặc giãn cơ thịt tùy trường hợp
cần thiết, xấy khô chỗ nầy, thoa ướt chỗ nọ. Ngoài ra còn có các loại mỹ phẩm,
sáp, sơn, và đôi khi thạch cao để đắp tay chân giả. Họ có đủ các món phụ tùng để
nâng đầu, đỡ cổ, kê tay, độn vai. Theo nghi thức, hầu hết tang lễ ở Bắc Mỹ đều
có mục thăm viếng nhìn mặt người quá cố. Vì thế nhân viên nhà quàn càng phải cẩn
trọng tỉ mỉ trong việc sửa soạn tử thi. Ðó cũng là một hình thức quảng cáo hữu
hiệu nhất cho uy tín nhà quàn. Một nhà quàn ở Ba Tây tự hào quảng cáo trên đài
truyền hình là khách hàng của họ (người chết) chưa hề quay trở lại để than phiền
cả!
Có những tang lễ mà người chết nổi tiếng trong xã hội nên số
người thăm viếng rất đông; số lượng tràng hoa phúng điếu tràn ngập từ ngoài vào
trong nhà quàn. Các tiệm hoa quá bận rộn sinh ra lầm lẫn. Một siêu thị mừng
khai trương chi nhánh mới nhận được tràng hoa có hàng chữ "Deepest
Sympathy" và một tang gia nhận được tràng hoa có hàng chữ
"Congratulations on your new location".
Tôi xin kể một chuyện khôi hài nữa để nói lên sự nhầm lẫn đối
với người chết. Sau khi đã dự một bữa tiệc nhân ngày lễ Ma Quỷ, hai đứa bạn ra
về trong đêm tối quyết định làm gan đi ngang qua một nghĩa trang. Bỗng họ nghe
tiếng động nên dừng lại lắng tai nghe và nhìn thấy một ông già đang quì gối và
dùng búa với đục để khắc bia mộ. Hai cậu hỏi, "Bộ việc gấp hay sao mà cụ
làm việc khuya thế?" Bỗng hai cậu nghe tiếng cụ lầm bầm, "Làm ăn cẩu
thả! Nội cái tên của tao mà khắc cũng sai!" Dĩ nhiên là hai cậu bỏ chạy vắt
giò lên cổ!
Có một số chuyên viên tử thi (mortician) tự gọi họ là chuyên
viên bán phẫu thuật, mặc dù họ chỉ theo học qua một khóa huấn luyện chuyên môn
từ 8 đến 12 tháng ở trường cao đẳng sau khi tốt nghiệp bậc trung học. Một
chuyên viên tử thi lành nghề giàu kinh nghiệm có thể làm xong giai đoạn rút ruột
trong một thời gian ngắn và không phải mổ xẻ gì nhiều. Việc nầy cần phải được
làm ngay càng sớm càng tốt; lý tưởng hơn hết là làm trước khi các tế bào hoàn
toàn chết trong thi thể.
Họ châm kim vào mạch máu và rút hết máu ra khỏi tử thi, xong
bơm đầy trở lại bằng một dung dịch tên là Flextone hoặc Suntone có pha màu cho
phù hợp với màu da của tử thi lúc còn sống. Mục đích chính của sự rút máu là để
tránh trường hợp chết đi sống lại và chôn sống, để cho cái xác khỏi bị biến dạng,
vừa để lấy chỗ trống cho dung dịch được bơm vào. Ngày xưa, khi cách thức rút
máu chưa được áp dụng, đã xảy ra nhiều trường hợp người chết sống lại. Nếu sự sống
lại xảy ra hoặc được phát hiện kịp thời thì may mắn cho người chết hụt đó; bằng
không thì người đó vô tình bị chôn sống. Có nhiều ngôi mộ khi cải táng, người
ta tìm thấy thi hài nằm trong vị thế với tay chân co lên như thể người chết
đang cố sức tung nắp hòm ngồi dậy.
Trong quyển sách Những Bí Ẩn Sau Cõi Chết, tác giả Đoàn Văn
Thông cho rằng trường hợp người chết sống lại cũng không hiếm xảy ra ở Việt
Nam:"Bà Lê Thị Duyên sống tại Chợ Vườn Chuối, năm 1972 bị trúng gió và qua
đời. Người nhà khóc lóc lo việc tẩm liệm nhưng hai ngày sau, bà vươn vai ngồi dậy
khiến mọi người hoảng hồn. Bà kể như đang nói chuyện bình thường với người
trong nhà: _ Người ta đuổi tôi lên, dưới đó tối tăm dễ sợ lắm, tôi có gặp ông Cửu
Hợi, ông nói đói lạnh lắm, cúng cho ông."
Tác giả Đoàn Văn Thông kể một trường hợp khác: "Ngay tại
Nha Trang, kẻ viết bài nầy đã thấy rõ một chuyện khá ly kỳ về ông Sáu, nguyên
ông này thường hay đến nhà ông bà Bùi Liên đánh tài bàn, tứ sắc chơi (lúc đó
khoảng năm 1986). Một hôm ông Sáu bị trúng gió mất tại nhà. Chính quyền lúc đó
không cho gia đình quàn linh cữu lâu ở nhà, mà chỉ một ngày sau là phải đem đi
chôn tại Đồng Đế. Đoàn phu gánh quan tài đến gần mộ huyệt thì bỗng nhiên nắp
hòm phát ra tiếng rầm rầm. Mọi người kinh hãi . Nhóm phu gánh vội vã đặt quan
tài xuống đất, may mắn trong các xe Honda của những người đi đưa tiễn có đủ kềm,
búa, dụng cụ, tức thì nắp hòm được nạy ra và ông Sáu ú ớ ngồi dậy. Về nhà tịnh
dưỡng một thời gian lành mạnh như xưa và ông Sáu lại tiếp tục đánh bài giải buồn."
Có một nhân viên nọ quá mê xem đá banh giải Túc Cầu Thế Giới
nên nói láo với xếp là bà ngoại anh ta vừa mất để vắng mặt ở sở làm vài bữa.
Khi trở lại sở làm, ông chủ hỏi anh công
nhân, "Anh có tin là con người có đời sống sau khi chết không"? Anh
công nhân đáp, "Dạ tôi tin". Ông chủ thở ra nói, "Hèn chi bữa
trước sau khi anh ra về đi đám ma bà ngoại anh rồi, bả từ dưới quê lên tới đây
kiếm anh."
Chắc mọi người chúng ta không quên câu chuyện thần tiên Bạch
Tuyết và Bảy Chú Lùn. Bạch Tuyết cắn quả táo tẩm thuốc độc của bà phù thủy mà
chết; đến khi hoàng tử mở nắp hòm kính và làm hô hấp nhân tạo bằng cách đặt một
chiếc hôn tình yêu nồng nàn lên môi Bạch Tuyết thì Bạch Tuyết sống dậy. Trong
văn học Trung Hoa cũng có một chuyện tương tự.
Thôi Hộ là một nho sĩ nổi tiếng làm thơ hay. Năm đó, nhà thơ
vác ba-lô lội bộ lên kinh đô đi thi, không nghe nói là thi lấy bằng cấp gì. Dọc
đường chàng thấy nhà ai đó có vườn đào đầy hoa đẹp quá bèn ghé vào xem, không
ngờ trong nhà đó có người đẹp nữa. Thế là chàng thi sĩ Thôi Hộ càng có lý do để
vào nhà bắt chuyện làm quen với người đẹp, viện cớ chính đáng là đi đường xa
khát nước (chẳng lẽ bảo người đẹp rằng mình mắc tiểu quá?) Người đẹp tên là Đào
Phụng Trinh mới có mười sáu tuổi, con của ông Đào Bạch Phụng. Thấy anh chàng
sinh viên nầy cũng bảnh trai, ăn nói lịch sự có duyên nên Phụng Trinh pha trà
ngon Vũ Di thuộc hạng chiến nhất cho chàng uống, xong chàng từ giã để tiếp tục
lên đường. Năm sau chàng có dịp đi qua đó nữa nên ghé vào vườn đào, nhưng không
có ai ở nhà cả vì hai cha con ông Đào Phụng bận đi cúng chùa. Không gặp người đẹp,
Thôi Hộ bèn lấy giấy bút ra viết bốn câu thơ "Đề Tích Sơ Kiến Xứ" rồi
nhét vô kẹt cửa để lại:
Khứ niên kim nhật thư môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu xuân phong
Dịch: Bài Thơ Ghi Nơi Thấy Chốn Xưa
Năm trước ngày này bên cửa ấy
Mặt ai hồng thắm tựa hoa đào
Người giờ không biết phương nào thấy?
Hoa đào cười đón gió xuân trao. (PH)
Trong truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du có hai câu thơ sát ý
hơn và hay hơn là:
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Năm sau nữa, Thôi Hộ trở lại ngôi nhà có vườn đào vì nhớ Phụng
Trinh quá. Ông Đào Phụng nghẹn ngào bảo rằng Phụng Trinh mới chết; chết vì thất
tình chàng cả năm trời nay, sau khi đã đọc bốn câu thơ của chàng năm ngoái.
Thôi Hộ đến ôm xác Phụng Trinh vào lòng gọi trong nước mắt: "Phụng Trinh
ơi! Hãy sống lại đi em! Anh là Thôi Hộ của em đây! Đừng bỏ anh một mình! Phụng
Trinh sống dậy thật, có lẽ nhờ Thôi Hộ ôm nàng thật chặt và lắc thật mạnh khiến
cho tim nàng được kích thích và tái hoạt động!
Bây giờ chúng ta hãy trở lại phòng tẩm liệm của nhà quàn để
tiếp tục theo dõi công việc của chuyên viên tử thi. Dung dịch bơm vào tử thi có
tác dụng giữ cho cơ thịt khỏi bị thối rữa và vẫn giữ được cái cảm giác căng phồng
uyển chuyển mềm mại khi sờ đến. Thành phần cấu tạo của dung dịch gồm có
formaldehyde, glycerin, hàn the, phenol, cồn và nước có pha nước hoa và phẩm
màu, với dung tích tổng cộng khoảng trung bình hai chục lít tùy kích thước của
tử thi, lớn con hay nhỏ con, béo phì hay ốm nhom ốm nhách. Miệng tử thi được
khép kín và may lại sao cho hai khóe môi khẽ nhếch lên trông cho tươi và tự
nhiên. Mặt răng được rửa sạch và thoa sơn bóng không màu. Mắt được dán kín bằng
keo để ngừa trường hợp mắt tự dưng mở ra hoặc có ai cắc cớ vạch lên xem.
Giai đoạn kế tiếp là giai đoạn chính: rút ruột, cũng tương tự
như thủ tục hút mỡ bụng. Người ta thọc một cái ống cứng dài, ở đầu có gắn cây
kim rỗng, vào bụng tử thi, ngoái tới ngoái lui khắp bụng và lồng ngực để rút hết
bộ đồ lòng, xong bôm vào đầy lại bằng dung dịch lỏng và may kín lỗ nơi bụng.
Sau đó, mặt tử thi được thoa kem thật nhiều để ngừa trường hợp có chỗ nào trên
mặt bị rỉ. Giai đoạn rút bộ đồ lòng đã qua, thây ma nhẹ nhõm cả người, quả đúng
là "đoạn trường ai có qua cầu mới hay", vì "đoạn trường" chữ
Hán có nghĩa là "đứt ruột" mà! Nhưng đó mới chỉ là giai đoạn đầu
thôi, thây ma chớ có vội mừng! Trước khi bắt đầu qua giai đoạn hai, người ta để
cho thây ma nằm nghỉ xả hơi từ tám tới mười tiếng đồng hồ chờ cho cơ thịt khô một
tí và cứng thêm một tí cho dễ làm việc tu bổ lại.
Tu bổ lại cái xác sao cho dễ nhìn là một điều quan trọng vì
ít có mấy ai đang tươi rói mà lăn đùng ra chết. Thường thường là người ta chết
sau một cơn bệnh ngặt nghèo hoặc sau một tai nạn thảm khốc đã làm cho cái xác
không còn nguyên vẹn hình hài hoặc trông xấu xí thảm não. Tái tạo lại hình ảnh
người chết quả là một thử thách lớn đối với chuyên viên tử thi. Cuộc đánh vật với
thây ma lại tiếp tục. Người chuyên viên nầy phải trổ tài điêu khắc và thẩm mỹ.
Cái thây dập nát mất một bàn tay hả? No problems! Đem thạch cao ra đổ khuôn,
xong ngay! Tai, môi, mũi tét mất hả? Cũng no problems luôn! Kiếm cái bằng sáp
nào cùng hình dáng và kích cỡ đem lắp vô, xong ngay! Muốn làm lỗ chân lông cho
nó giống y như da người thật thì chỉ việc dùng một cây cọ nhỏ chấm chấm, phết
phết lên là xong. Tô một lượt make-up lên nữa thì y như thật. Miệng, má, cổ
sưng vù thì cắt bớt thịt phía bên trong; lỡ tay cắt hơi lố thì độn bông gòn.
Nếu cái đầu bị đứt lìa thì ráp nó lại rồi khoác lên một cái
khăn quàng cổ để che đậy chỗ nối, có sao đâu! Còn nếu gặp trường hợp ngược lại
là cái xác bị hủng, hóp thì bơm chất kem xoa bóp vào. Phần khó nhất là làm cho
hai cái môi trông thật tự nhiên với môi trên hơi đưa ra một tí, hai môi phải hở
ra một tí. Bấy giờ ông chuyên viên hay bà chuyên viên mới trổ tài kỹ sư ra, sửa
vị trí cái hàm dưới, dùng kim, giây kẽm, ràng rịt đến khi nào vừa ý mới thôi.
Người chuyên viên thì thầm vào tai cái xác: "Sorry! No pain, no
gain!" Rất tiếc! Muốn đẹp thì phải chịu đau!
Giai-đoạn chót là chùi rửa, làm sạch sẽ, chải chuốt, mặc quần
áo bảnh bao, chưng diện cho cái xác một cách thật tỉ mỉ và cẩn trọng, không bỏ
qua một chi tiết nhỏ nào: gội đầu, chải tóc, cạo râu, xén lông mũi, cắt móng
tay. Xong cho cái xác vô hòm nằm, không sâu quá, không cạn quá, hơi nghiêng về
phía bên mặt, dùng gối độn tay, vai, cổ, đầu, sao cho vị thế trông phải thật tự
nhiên đúng cách. Có khi người ta còn đặt vào tay cái xác một vật gì đó, chẳng hạn
như một quyển sách, một cái ống vố, hay là một con gấu nhồi bông, tùy theo sở
thích thuở sinh tiền hoặc tùy theo sự yêu cầu của thân nhân.
Chẳng lẽ bỏ ra bao nhiêu công sức đó để rồi đậy nắp quan tài
lại và đem chôn hoặc đem đốt? Không. Bắc Mỹ là cái rốn của kinh tế thị trường,
của quảng cáo, của lăng-xê sản phẩm. Người ta làm đẹp cái xác chết với mục đính
là để trưng bày, để khoe tay nghề cao của nhà quàn. Chín mươi phần trăm đám
tang có quan tài mở nắp, vừa để khách viếng linh cữu có dịp nhìn mặt người chết
lần cuối qua hình ảnh đẹp, vừa là dịp tốt để quảng cáo dịch vụ tuyệt hảo của
nhà quàn. Từ nay, nếu bạn tự hào bảo rằng "cả đời tôi không bao giờ đi sửa
sắc đẹp", tôi còn phải nghĩ lại.
Thủ tục tẩm liệm và các nghi thức tang lễ ở Việt Nam ngày
xưa cũng nhiêu khê lắm, cũng phải được tuân hành đúng từng chi tiết. Càng về
sau người ta càng đơn giản hóa phần trình diễn hình thức rườm rà. Sách Văn Minh
Việt Nam của học giả Lê Văn Siêu có ghi lại từng chi tiết các nghi thức của một
tang lễ. Trước tiên là lễ mộc dục: Xác người chết được tắm gội bằng nước nấu
chín có pha ngũ vị hương, chải chuốt, cắt móng tay, thay quần áo và vấn khăn tề
chỉnh. Tóc rụng và móng tay được gói lại để chôn theo người chết; khăn lược lau
chải người chết cũng được chôn đi. Tiếp đến là lễ phạn hàm: Miệng người chết được
dồn đầy gạo nếp, tiền vàng, hạt trai. Thứ đến là lễ khâm liệm: Xác chết được quấn
bó chặt bằng vải, lụa để giữ vị thế nằm duỗi thẳng. Lễ nhập quan: Xác chết được
nhấc và đặt vào trong hòm (áo quan) và được tấn, chêm, độn chung quanh bằng y
phục cũ của người chết để lấp đầy mọi khoảng trống, xong đậy nắp và đóng đinh.
Lễ thiết linh sàng linh tọa: Con cháu cúng người chết bằng thức ăn, trà rượu.
Sau đó là các lễ động quan và hạ huyệt.
Đi kèm với mỗi lễ là nghi thức tế lạy cùng với lời khấn đọc
và văn tế cho vong linh người chết. Vì nghi thức rắc rối khó nhớ cho nên tang
gia thường phải rước một thầy cúng đến để hướng dẫn. Ngoài ra các lễ vừa kể
trên phải được cử hành tùy theo ngày giờ tốt hợp. Người xưa quan niệm tang lễ cần
được tổ chức rình rang cốt làm rạng rỡ thanh danh người chết và gia đình người
sống; do đó mới có người làm nghề khóc mướn. Theo phong tục Việt Nam, chết là
phải chôn. Hỏa thiêu chưa phổ biến, ướp xác để dành như ông Hồ thì quả là độc
nhất vô nhị, một trò bắt chước đáng lấy làm xấu hổ đi ngược lại với tinh thần
Việt tộc là sống gửi thác về. Thật là một chuyện ruồi bu.
Nhắc đến đây, tôi xin kể câu chuyện xây mồ cho một con ruồi.
Publius Vergilius Maro hay Vergil (hay cũng còn đánh vần theo Anh ngữ là
Virgil) là một thi hào La Mã sinh năm 70 và mất năm 19 trước Công Nguyên, thọ
51 tuổi và là tác giả của trường thi Aeneid. Virgil đã làm một tang lễ long trọng
cho một con ruồi trong nhà mà ông coi như là "pet" của ông.
Dường như thi sĩ nào cũng khùng khùng thì phải; và mức độ
khùng của họ dường như cũng tỉ lệ thuận với thi tài. Càng nổi tiếng càng khùng
nhiều. Làm đám tang cho con ruồi ngay tại dinh cơ riêng của mình nằm trên ngọn
đồi Esquiline của thành phố La Mã, Virgil chịu chơi chi tiền mời cả một ban nhạc
hòa tấu và một đám người khóc mướn cho xôm tụ. Nhiều khách có tiếng tăm tham dự
đọc điếu văn hùng hồn lắm. Virgil trỗ nghề của chàng, làm liền mấy bài thơ khóc
ruồi và ngâm nga cho quan khách nghe lé...lỗ tai chơi! Xác con ruồi được chôn cất
trong một ngôi nhà mồ vĩ đại! Chi phí tổng cộng cho đám tang ruồi là tám trăm
ngàn đồng tiền "sesterces" của La Mã lúc bấy giờ, tương đương với hơn
một trăm ngàn Mỹ kim! Virgil làm như vậy vì lý do nào? Số là ông ta nghe tin
"tình báo" rằng bộ ba cầm quyền tam đầu chế lúc bấy giờ là Octavius,
Lepidus và Mark Antony đang có kế hoạch tịch thu đất đai của nhà giàu để làm phần
thưởng ban phát cho các cựu chiến binh hữu công. Ðiều ngoại lệ đặc biệt là đất
phần mộ sẽ được miễn trừ. Thế là khi luật chính thức ban ra, toàn bộ cơ ngơi của
Virgil vẫn còn nguyên mà không bị trưng thu, nhờ có ngôi nhà mồ...ruồi, to chẳng
thua gì lăng Ba Ðình.
Cái xác ướp của ông Hồ Chí Minh trưng bày trong lăng Ba
Đình, mặc dù tôi chưa thấy nhưng tôi nghĩ chắc nó không đẹp. Tôi không nói ông
xấu trai; ý tôi chỉ muốn nói là tài ướp xác của các chuyên viên Liên Sô chưa đạt
đến trình độ cao cấp. Giá ngày xưa mấy chú em trong đảng cộng sản của ông sáng
suốt hơn một tí, chịu đi nhờ các chuyên viên tử thi của Mỹ thì có phải ngày nay
hình hài đẹp đẽ của ông sẽ sống mãi trong quần... chúng không?
Trong thời gian quân đội Mỹ tham chiến ở Việt Nam, có một
quân nhân Hoa kỳ bị bạn đồng đội bắn chết chỉ vì nạn nhân mặc áo thun có in tên
Hồ Chí Minh. Hai người lính trẻ nầy cùng chung một phiên canh gác, cùng chia xẻ
với nhau hút những điếu thuốc cần sa cho đến khi bị say thuốc. Lúc ấy có một
nhóm trẻ em Việt Nam đến gần trạm gác của hai người. Nạn nhân vốn tính hay đùa
nghịch, đưa súng lên bắn nộ mấy phát về phía các em nhỏ nầy, vừa nói: Tao là Hồ
Chí Minh đây!" Thủ phạm hỏi lại nạn nhân có phải đích thực anh ta là Hồ
Chí Minh hay không thì nạn nhân chỉ vào chiếc áo thun có in ba chữ Hồ Chí Minh
đang mặc của mình. Thủ phạm hoảng sợ liền nổ súng bắn chết bạn đồng đội ngay tại
chỗ. Xong anh ta lột chiếc áo thun có in ba chữ Hồ Chí Minh đẫm máu chạy vào trại
và hãnh diện khoe với mọi người rằng anh ta vừa mới hạ được Hồ Chí Minh! Sau
đó, bác sĩ tâm thần nhận định rằng anh quân nhân nầy bị ảnh hưởng của cần sa
làm rối loạn tâm thần và hoang tưởng suy luận.
Người xưa quan niệm cọp chết để da, người chết để tiếng. Để
tiếng tốt thì người đời sau kính mến và tưởng nhớ, sùng bái và tôn thờ. Để tiếng
xấu thì nghe chửi và nguyền rủa hoài không bao giờ hết. Có những đám tang người
đưa tiễn rất đông; đi để bày tỏ một tấm lòng hoài niệm nhưng cũng có khi đi để
chứng kiến tận mắt và biết chắc người ấy đã chết thật rồi theo nghĩa trào lộng
của Kim Thánh Thán.
Có người nào đó ( Khổ quá! Tôi lại quên tên người ta mất rồi!)
phán một câu dí dỏm là, "Chôm ý của một người khác là đạo văn; chôm ý của
nhiều người khác là biên khảo." (To steal ideas from one is plagiarism; to
steal ideas from many is research). Xin các bạn chỉ nên coi bài tản mạn nầy được
viết ra theo tinh thần của câu ranh ngôn đó mà thôi.
Phan Hạnh, Toronto.
No comments:
Post a Comment