Sunday 16 September 2012

Cuốn Theo Chiều Gió



 

Cuốn Theo Chiều Gió


 

 


 

Kể từ tháng Tám năm nay, cứ mỗi ngày Thứ Sáu, chúng tôi thường hay đi ra các vùng ngoại ô khoảng cách trong vòng một hoặc hai giờ đồng hồ lái xe. Ngày Thứ Sáu 17 tháng Mười, ngay sau Lễ Tạ Ơn, chúng tôi lái xe đến vùng Halton Hills và Caledon để chụp ảnh cảnh mùa thu có nhiều đồi và những con đường nhấp nhô uốn khúc. Sau khi đã mải mê chụp nhiều ảnh đồi đất đỏ ở Cheltenham Badlands, chúng tôi đến Forks of Credit Provincial Park để lội bộ theo đường mòn thiên nhiên dài mấy cây số. Con đường khó đi hơn chúng tôi tưởng và mất nhiều thì giờ hơn, ngang qua ao nước, đồng cỏ cao, lùm bụi, rừng thưa, dốc cao. Khi đến một khúc sông trên thượng nguồn sông Credit, chúng tôi dừng lại nơi một cây cầu bắt qua sông và đường tàu hỏa rồi quay trở về bãi đậu xe. Lúc bấy giờ đã 6 giờ chiều, trời tháng Mười bắt đầu mau tối, chúng tôi cảm thấy hơi lạnh len lẻn ập đến thấm qua làn áo. Trong ánh hoàng hôn chập choạng, những tia nắng chiều cuối cùng xuyên qua cánh đồng đầy hoa ké màu trắng như bông vải. Hầu hết những hoa ké tôi thấy đều đã bị sứt mẻ vì vài cánh mỏng manh đã bị gió thổi bay đi. Chợt thấy một đóa còn nguyên vẹn hình hài đẹp quá, tôi tức cảnh sinh tình nên cố nán lại phía sau để chụp thêm một vài tấm ảnh.

Ðến ngày Thứ Sáu 5 tháng 12, trời bên ngoài đã lạnh lắm rồi, những tấm thân già trên sáu bó (chữ của Công Tử Hà Ðông) chúng tôi chẳng dám uống thuốc liều lang bang trong High Park nữa. Các đàn ngỗng Canada geese đã xuôi về miền Nam nắng ấm mất hết cả rồi. Không phải là “chim tuyết”, chúng tôi đành rút tó vô condo ngồi quây quần bên nhau vừa ăn vặt vừa xem lại phim Cuốn Theo Chiều Gió. Dạ thưa vâng, chúng tôi xem lại, vì trước đó đã xem rồi vài lần. Phim hay thì dù xem lại vẫn thấy hay. Có người xem rồi mấy lần vẫn chưa hiểu hết, tức quá, kiếm truyện đọc. Có người đọc truyện trước, thấy hay qua, kiếm phim xem. Bạn tôi cho biết, có một người bạn của bạn tôi, đọc Gone With The Wind bảy, tám lần! Nghe tưởng là khó tin nhưng sự thật có khi còn hơn thế nữa. Bằng chứng là kể từ khi sách in ra năm 1936 và phim chiếu ra năm 1939 cho đến nay, sau hơn 70 năm, cả hai vẫn tiếp tục tạo nhiều kỷ lục.

Tại sao Gone With The Wind, cả tiểu thuyết lẫn phim, có sức thu hút người đọc và người xem đến thế? Trước khi có được câu trả lời thích đáng, chúng tôi xin tình nguyện “xuất hồn” đi ngược dòng thời gian để gặp Margaret (Peggy) Mitchell, người mẹ tinh thần sinh ra Gone With The Wind (GWTW) và xin bà dành cho một cuộc phỏng vấn.

(Phóng viên) Mít: Hi, Peggy! Tôi là Mít, phóng viên đài phát thanh người Việt CH9 (viết tắt của 9 chữ bắt đầu bằng CH là CHẳng CHịu CHờ CHết - CHọc CHo CHúng CHửi CHơi), trước hết xin chân thành cảm tạ Peggy đã dành thì giờ vàng ngọc cho cuộc phỏng vấn này. Xin Peggy cho biết Peggy sáng tác GWTW trong trường hợpnào?

Peggy: Thật ra tôi vốn có tính chây lười và ham chơi lắm. Tôi làm cái gì cũng là làm chơi chơi thôi. Số là từ khi còn bé, tôi đã thích cưỡi ngựa, nhưng một lần bị té nặng đã làm cho cổ chân của tôi trở nên yếu đi. Ðến năm 26 tuổi, tôi vẫn sống ở Atlanta là nơi tôi chào đời. Sự nghiệp viết lách không đi đến đâu lại đau yếu, có lúc tôi cảm thấy chán nản xuống tinh thần muốn bỏ dở luôn chuyện sáng tác. May nhờ có John Marsh, chồng tôi, một giám đốc quảng cáo, tin tưởng ở tài năng tôi và tìm cách áp lực tôi tiếp tục cầm bút. Trong 5 năm đầu (1925, 1930), tôi viết nhiều và đều đặn. Tôi dùng bối cảnh của cuộc nội chiến vốn đã chấm dứt 60 năm trước. Ðến năm lên 10 tuổi, tôi vẫn chưa biết là miền Nam thua trận. Mẹ của tôi phải đưa tôi ra vùng quê ngoại ô, chỉ cho tôi thấy dấu tích hoang tàn còn sót lại của các ngôi nhà nông trại cháy nám rồi nói lên sự thật quan trọng ấy cho tôi biết. Sau này tôi cứ bị câu chuyện kể về sự bại trận ám ảnh mãi và cuộc chiến huynh đệ tương tàn luôn luôn là chiếc bóng đi bên cạnh đời tôi. Tôi không cần phải nói, ông là người miền Nam nước Việt Nam của ông và đã kinh qua biến cố 30 tháng Tư 1975, chắc ông cũng biết cái cảm giác đó nó như thế nào rồi, phải không ông Mít?

Mít: Dạ tôi đang phỏng vấn Peggy chứ không phải Peggy đang phỏng vấn tôi; vì thế tôi xin miễn trả lời.

Peggy: Anyway, tôi lớn lên trong một thành phố nơi mà những kỷ niệm qua con người và các địa danh vẫn còn sống động; và một chuyến đi viếng thăm bà con bên ngoại ở một nông trại cách Atlanta 20 dặm về phía Nam đã chờn vờn mãi trong tâm trí tôi. Nông trại ấy từng do bà ngoại tôi làm chủ sau khi bà ấy đã phải di tản khỏi thành phố Atlanta khi đạo quân của tướng Sherman tiến vào. Hoàn cảnh người dân miền Nam của ông chắc cũng tương tự như vậy khi xe tăng Bắc Cộng tiến vào Saigon, có phải không ông Mít?

Mít: Xin nhắc lại một lần nữa là tôi đang phỏng...

Peggy: Biết rồi. Xin lỗi. Tôi kể đến đâu rồi nhỉ? À! Lúc khởi sự viết, tôi chỉ biết đoạn kết cuộc và đoạn đầu của câu chuyện; và tôi chọn viết đoạn kết trước. Rhett Butler nói câu, “Frankly, my dear, I don’t give a damn!” với vợ là Scarlett rồi bỏ đi không bao giờ trở lại. Câu này tôi thuỗng của ông chồng trước của tôi khi tôi bỏ ổng đặng lấy ông chồng hiện giờ.


Mít: Mít tôi và vô số người Việt sống lưu vong cũng ôm mộng viết hồi ký hoặc tiểu thuyết. Vậy Peggy có thể cho biết bí quyết viết thế nào để thành công?

Peggy: Tôi chẳng có bí quyết gì cả; tôi chỉ viết tùy hứng, bạ đâu viết đó. Thật ra tôi ít khi viết diễn biến câu chuyện một cách liên tục. Tôi nhảy từ đoạn này sang đoạn khác, đứt quãng nhiều năm. Viết một chương xong, tôi bỏ vào phong bì giấy dầu, đánh dấu, rồi quẳng nó qua một bên. Trải qua nhiều năm tháng, những phong bì này trở nên phai màu hoặc dính đầy vết vấy cà phê tôi làm đổ. Có khi lười tìm giấy trắng, tôi còn nguệch ngoạc viết bừa lên bên ngoài phong bì cái “list” đi chợ ghi ra các món cần mua.

Mít: Có ai biết là Peggy đang viết tiểu thuyết và khích lệ Peggy không?

Peggy: Ngoài chồng tôi ra, không ai khác biết là tôi đang viết tiểu thuyết. Tôi là người có tính vô cùng tự kỷ ám thị về phẩm chất văn chương của mình. Tôi rất thiếu tự tin, lúc nào cũng chỉ sợ nó dở và bị người ta chê bai. Có lần, tôi còn lấy một xấp bản thảo để kê chân bàn cho nó khỏi chông chênh. Tôi giấu bài viết của tôi như mèo giấu c... Xin lỗi. Ðáng nhẽ tôi không nên dùng từ ngữ thô tục. Ý tôi muốn nói là chỉ có chồng tôi được phép đọc qua bản nháp lúc bấy giờ. Khi có bạn đến thăm, tôi phải vội vàng giấu bản thảo dưới nệm giường hoặc sofa. Trường hợp bạn đến thình lình, tôi còn phải vội vơ đại khăn lau chén phủ lên máy đánh chữ nữa đấy. Nhưng tôi cũng có bật mí đôi chút cho Lois Cole, một người bạn sau đó lên New York làm việc cho nhà xuất bản McMillan.

Mít: À thì ra Peggy có “connection”?

Peggy: “Connection” cái con khỉ! Tôi viết cốt để giết thì giờ thôi chứ đâu có nghĩ là sách mình sẽ được xuất bản.

Mít: Thế Peggy viết mất bao lâu mới xong?

Peggy: Tôi bắt đầu ngồi gõ chữ từ năm 1925. Sau 5 năm dài vắt tim óc để đánh máy hàng ngàn trang giấy, tôi cũng chỉ mới hoàn tất được 2/3 quyển truyện. Phần chưa viết gồm có chương đầu, một số đoạn nối kết và tựa sách. Tôi phân vân giữa các lựa chọn: Tomorrow Is Another Day (Mai Lại Một Ngày), Bugles Sang True (Trỗi Thật Ðiệu Kèn), Not In Our Stars (Không Phải Số Mình), và Tote the Weary Load (Hành Trang Mang Nặng) nhưng vẫn chưa hài lòng. Lúc bấy giờ, cổ chân tôi hết đau; tôi tạm quên gánh nặng viết lách để hòa mình vào những sinh hoạt bình thường mà tôi yêu thích như gặp gỡ bạn bè trong các buổi ra ngoài đi dạo, đi ăn trưa, ăn tối, lễ hội, khiêu vũ, v.v. Thấy tôi lơ là, chồng tôi lại làm áp lực hối thúc. Chúng tôi dọn nhà, đống bản thảo nằm trong xó tủ. Năm 1934, tôi bị trặc cổ trong một tai nạn xe hơi; thế là lại ngưng viết. Ðến khi nhà xuất bản đồng ý in sách cho tôi thì tôi mới phấn khởi và lên tinh thần trở lại. Tôi lại moi óc và tra cứu tài liệu để viết tiếp. Nói để ông thương chứ sau gần mười năm trời cặm cụi ngồi gõ chữ mà tôi vẫn chưa hoàn tất quyển truyện. Tôi thay tên các nhân vật chính khá nhiều lần: Pansie thành Scarlett, Permelia thành Melisande rồi thành Melanie; đổi tên trang trại Fontenoy Hall thành Tara, v.v.

Mít: Thế cái tựa Gone With The Wind Peggy chọn sau cùng là do đâu mà có?

Peggy: Về phần cái tựa, vốn là một người yêu thích thơ văn, một hôm tình cờ tôi nhớ lại bài thơ 24 câu có tựa đề chữ La Tinh là Non Sum Qualis Eram Bonae sub Regno Cynarae (một câu của thi hào La Mã Horace), theo Anh ngữ có nghĩa là “I am not as I was under the reign of the good Cynara” (vì thế người ta thường gọi tắt tựa bài thơ là Cynara) của thi sĩ người Anh Ernest Christopher Dowson (1867–1900), trong đó có một đoạn như sau:

I have forgot much, Cynara! gone with the wind,

Flung roses, roses riotously with the throng,

Dancing, to put thy pale, lost lilies out of mind;

But I was desolate and sick of an old passion,

Yea, all the time, because the dance was long:

I have been faithful to thee, Cynara! in my fashion.

Tôi lấy làm mừng rỡ vì bốn chữ Gone With The Wind vừa phù hợp với chủ đề của tác phẩm vừa mang âm điệu thi vị lắm. Ông Dowson dùng câu thơ của Horace được thì tôi cũng dùng câu thơ của ông ta được, đâu có chết thằng Tây nào. Chắc ông cũng biết, Cynara theo chữ La Tinh là tên của loài cỏ dại, tên Anh ngữ là thistle; trái của nó bao bọc bên ngoài nhiều gai mà người Việt ông gọi là trái ké; ai đi lội vô chỗ đó dễ bị nó dính hai ống quần (Peggy rành sáu câu!). Hoa ké trắng như bông vải, hình cầu có nhiều cánh nhỏ hình thù như một cánh dù mang hạt nhỏ xíu thường tung bay tơi tả trong không khí khi có gió nổi lên. Hồi còn học bậc tiểu học ở Việt Nam, chắc ông từng dùng từ điển Larousse của Pháp hẳn không quên nhãn hiệu có hình hoa ké và câu phương châm “Je sème à tout vent”, tôi nói có đúng không?

Mít: À ...ờ...dạ vâng. Ðúng. Peggy có đưa một phần nào về kinh nghiệm đời thật của mình vào tiểu thuyết hay không?

Peggy: Tôi quan niệm tiểu thuyết phải dựa vào sự kiện thật ngoài đời mới là tiểu thuyết hay. Sự hư cấu là để tô vẽ cho bức tranh thật trở nên bi hùng hơn. Có một số biến cố trong truyện phản ảnh kinh nghiệm trong đời sống thật của tôi. Năm 1918, trong lúc tôi đang xa nhà để theo học ở Massachusetts, mẹ tôi mất vì bệnh cúm ở Atlanta; trong truyện, Scarlett trở về Tara và hay tin mẹ mất vì bệnh thương hàn. Cũng cùng năm đó, tôi hứa hôn với một trung úy trẻ sang Pháp tham dự Ðệ Nhất Thế Chiến và tử trận, cũng tương tự như người chồng đầu tiên của Scarlett vừa cưới xong thì chết (tuy không vinh quang gì, vì là chết bệnh sưng phổi) trong khi còn đang thời kỳ huấn luyện quân sự. Năm 1919, trong khi vẫn còn để tang mẹ vừa mất mấy tháng trước, tôi đi dự một buổi dạ vũ từ thiện và nhảy múa điệu Apache vung vít khiến cho thiên hạ xầm xì, cũng giống như Scarlett trong phim, còn mặc đồ đen để tang chồng mà ra nhảy với Rhett tưng bừng làm cho các mợ sồn sồn ngứa mắt! Năm 1920, một trận hỏa hoạn lớn xảy ra ở Atlanta, tôi phải làm việc suốt đêm tại một trung tâm cấp cứu. Trong phim, Scarlett hớt hãi chạy khỏi Atlanta bừng lửa trong kinh hoàng vừa thể hiện chuyện thật trong sử sách vừa là kỷ niệm riêng của chính tôi đấy.

Mít: Bằng cách nào mà Peggy có thể liên lạc được với nhà xuất bản? Tôi xin hỏi để rút kinh nghiệm.

Peggy: Tôi có liên lạc với nhà xuất bản bao giờ đâu. Họ đi tìm tôi đấy chứ. Năm 1935, ông Harold Latham của nhà xuất bản McMillan đến thành phố Atlanta để tìm kiếm những tay viết mới. Một người bạn của tôi là Lois Cole cũng đang làm việc cho nhà xuất bản McMillan nên có nhắc đến tôi cho Harold Latham biết. Vì thế khi đến Atlanta, ông Latham nhờ tôi hướng dẫn cho ông ta đi tìm tài năng mới, nhưng tuyệt nhiên tôi chẳng dám đá động gì đến tác phẩm của mình. Ông ta dặn hờ là nếu tôi có bản thảo truyện nào thì hãy đưa cho ông ta xem trước. Tôi vẫn không chịu đưa bản thảo của chính mình cho ông ta xem; vì theo sự nhận xét của tôi, GWTW dở quá làm cho tôi mắc cỡ.

Mít: Thế thì do cơ duyên nào mà GWTW lọt vào mắt xanh của nhà xuất bản?

Peggy: Thế rồi một hôm ngồi quán tán láo chơi, có một người bạn nhận định về tôi như sau, “Nói thật nha, tao không nghĩ mày thuộc loại nhà văn có thể viết một tác phẩm thành công. Mày không đủ quyết tâm để trở thành một tiểu thuyết gia”. Bị chạm tự ái, tôi tức tốc chạy về nhà chộp đống bản thảo đi tìm gặp ông Latham. Lúc ấy ông đang trọ ở khách sạn. Tôi hồi hộp ngồi chờ ở đại sảnh. Vừa thấy ông ta xuống, tôi thẳng thừng đùa đống bản thảo cao như núi về phía ông và bảo, “Ông cầm lấy cái của quỉ này đi ngay không thôi tôi đổi ý bây giờ!” Ông ta phải chạy đi mua một cái valise riêng để đựng nó đấy. Sau khi ông ấy rời thành phố Atlanta để về lại New York rồi thì tôi mới lạnh cẳng đổi ý. Tôi tức tốc chạy ra bưu điện gởi ngay cho ông một bức điện tín đòi ông trả bản thảo lại. Ông ta có nhận được bức điện tín đó nhưng cứ lờ tôi đi và làm như không biết. Sau đó ông ta mới tiết lộ với tôi là ông chưa từng thấy bản thảo nào bê bối như bản thảo của tôi. Nó vừa vàng ố, ẩm mốc mà lại còn chi chít chỗ sửa bằng bút chì; ông ngồi trên xe lửa lắc lư con tầu đi vừa đọc vừa ruả tôi quá chừng. Ấy vậy mà ông thính mũi đánh hơi biết ngay đó là một tác phẩm ăn khách và hái ra tiền. Ông ta liền “offer” sẽ in, với điều kiện là tôi phải viết nốt cho xong chương đầu còn thiếu, làm tôi tưởng tôi nghe nhầm chứ!

Mít: Rồi sao nữa? Peggy kể gấp đi. Chính tôi đây là một phóng viên lão làng (già, nhưng không lão luyện) mà còn hồi hộp đây nè!

Peggy: Ông Mít ơi! Lúc ấy tôi lo lắm! Tôi sợ khi tác phẩm của tôi tung ra rồi không biết người miền Nam có vui lòng đón nhận nó hay không; hay là họ lại trách tôi nhắc chi đến chuyện tan hàng thua trận, ông có hiểu không? Nếu họ không đón nhận GWTW, biết đâu tôi cũng sẽ bị “quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh” và bị mọi người xa lánh. Ông Latham gia hạn cho tôi trong 6 tháng phải hoàn toàn viết xong để in. Tôi phải đọc tới đọc lui không biết bao nhiêu bận và sửa chữa các chi tiết để cho nó ăn khớp với tài liệu sử.

Mít: Vậy sau khi sách tung ra rồi, dư luận đọc giả toàn quốc nói chung và miền Nam nói riêng phản ứng ra sao?

Peggy: McMillan in và tung ra đợt đầu mười ngàn cuốn tháng Tư 1936, tháng Bảy in thêm 50,000 cuốn nữa. In ra bao nhiêu người ta mua hết bấy nhiêu. Chỉ trong sáu tháng đầu đã bán ra nửa triệu cuốn và một năm sau hơn một triệu cuốn; tôi không thể tưởng tượng. Tờ New York Times khen ngợi nhiệt liệt trên trang nhất, tờ New York Sun so sánh GWTW như War and Peace của văn hào Nga Leon Tolstoy làm tôi nở mũi. Các tên tuổi lớn trên văn đàn Mỹ đương thời như Stephen Vincent Benet, Robert Nathan, và nhà văn H. G. Wells của Anh Quốc đang có mặt ở Mỹ lúc bấy giờ đều khen ngợi tôi. Ðiều tôi vui mừng hơn hết là toàn thể báo giới miền Nam đều nồng nhiệt đón nhận đứa con tinh thần của riêng tôi và của cả miền Nam thân yêu của tôi. Qua năm sau thì tôi nhận được giải Pulitzer Prize.

Mít: Theo Peggy thì nhờ vào yếu tố nào mà GWTW thành công?

Peggy: Về giá trị văn chương thì tôi nghĩ GWTW cũng không hơn không kém các tác phẩm ăn khách khác. Sở dĩ nó thu hút đọc giả, nhất là phái nữ, là vì nó đánh đúng tâm lý vai trò người phụ nữ cần có cá tính mạnh có thể đương đầu với mọi thử thách cam go trong cuộc sống và nhất là đương đầu trong mối liên hệ phái tính đối cực là người đàn ông. Tôi cố tình để cho nàng có những khuyết điểm như nóng nảy, ích kỷ, đanh đá, khe khắc, nhất là đối với gia nhân, vì tôi không muốn tạo ra một nhân vật nữ anh hùng toàn hảo như trong thần thoại Hy Lạp. Tôi muốn nàng thật gần gũi với một mẫu phụ nữ mà ta có thể gặp trong đời thường ở bất cứ đâu. Kể từ khi có Jane Eyre một trăm năm trước đến bây giờ mới có Scarlett O’Hara xuất hiện. Nữ sĩ Charlotte Bronte giới thiệu người con gái trẻ cương quyết tự giải phóng để trở nên độc lập trước những áp lực xã hội dưới triều đại Victoria Anh Quốc. Tương tự như thế, Scarlett O’Hara có đủ ý chí phản kháng lại mọi thống trị của phái nam. Ðẹp quyến rũ, thông minh, sắc bén, với thể chất nhỏ nhắn nhưng trong nghịch cảnh hay trong cơn cấp bách, nàng vẫn can đảm xoay sở không chịu khuất phục và hành động xử sự bằng lý trí hơn là tình cảm như một đấng nam nhi. Chắc ông nhớ chứ: cuối truyện, sau khi Rhett bỏ đi, Scarlett nói, “..Tara!...Home. I’ll go home, and I’ll think of some way to get him back! After all, tomorrow is another day!” (Tara!...Quê nhà. Phải, ta sẽ về, và bằng cách nào đó ta sẽ làm cho chàng trở về với ta. Dù gì chăng nữa, ngày mai cũng chỉ là một ngày nữa thôi!). Ông thấy không? Nàng chủ động tự quyết định đời mình; nàng sẽ phấn đấu để sống còn, và tinh thần bất khuất của nàng nối tiếp cho cuộc khởi dậy của Jane Eyre. Ðó là niềm hứng khởi cho phụ nữ chúng tôi ước vọng. Bằng quyết tâm, chúng tôi có thể vượt qua được mọi trở ngại để vươn lên từ đống tro tàn để xây dựng lại từ đầu. Tôi nghĩ đó là yếu tố chính của thành công. Nhưng tôi cũng muốn thú nhận với ông một điều là nếu không có sự hỗ trợ và thúc đẩy của chồng tôi thì chắc là tác phẩm GWTW không hề có.

Mít: Xin được phép hỏi Peggy câu hỏi cuối là thường thường những câu chuyện tình đều có kết cuộc tốt đẹp kiểu “They live happily together ever after”, vậy Peggy có định viết quyển kế tiếp cho Scarlett gặp lại Rhett như ý nàng muốn hay không?

Peggy: Ông điên rồi sao? Tiền bản quyền tôi kiếm được xài mãn đời không hết, tội gì tôi phải ngồi gõ lọc cọc nữa cho mệt thân? Vả lại, tôi có nói với ông từ đầu là tính tôi chây lười và ham chơi lắm. Thôi ông về lo viết chuyện của ông đi nhé. Bye ông.

Cuộc đời có nhiều chuyện oái oăm; trong khi nhân vật Scarlett cương nghị và can đảm đứng vững trước mọi vinh quang cũng như thất bại thì Margaret không được như thế. Bà phải tìm sự trợ giúp nơi người chồng. Danh vọng và tiền tài đến với bà có khi trở thành một sự đe dọa hơn là giải phóng. Bà càng trở nên an phận thúc thủ hơn dưới bóng hôn nhân và không cầm bút nữa. Bà cảm thấy như bị vây hãm bởi sự nổi tiếng của bà, sự chú ý theo dõi của giới truyền thông và sự ái mộ của công chúng dành cho bà.

Năm 1945, chồng bà bị kích tim và sức khoẻ ông không bao giờ hồi phục như cũ. Bà trở nên hiền thục hơn và càng giống như nhân vật Melanie trong tác phẩm của bà, một người vợ dịu dàng thương yêu luôn luôn kiên nhẫn chịu đựng chăm sóc cho chồng. Không ngờ số phận khiến cho bà ra đi trước. Bà mất năm 1949; chồng bà mất năm 1952 và được chôn bên cạnh mộ bà tại nghĩa trang Oakland, Atlanta. Với cả hai đời chồng, bà đều không có con.

Margaret (Peggy) Mitchell từ giã cõi đời và hàng triệu triệu đọc giả của bà khắp nơi trên thế giới năm 1949, hưởng thọ 48 tuổi. Ở thành phố Atlanta và vùng phụ cận có nhiều viện bảo tàng cùng di tích lịch sử liên quan đến bà và GWTW.

Viện bảo tàng GWTW được khánh thành ngày 15 tháng 12 năm 1999 để kỷ niệm 60 năm buổi chiếu ra mắt phim cùng tên. Trong đó có trưng bày vô số các kỷ vật như một số cảnh trí dàn dựng trong phim, bích chương, búp bê, trò chơi, đĩa tô, đồ trang sức, y phục, các đoạn phim nhựa gốc dùng trong đêm chiếu ra mắt, và bản truyện phim. Ngay sau lối cửa vào là bức tranh lớn của Scarlett với vết rượu đổ khi Rhett ném ly rượu vào bức tranh đó trong phim.

Cách viện bảo tàng Marietta chỉ hai dặm về hướng tây là Công Viên Quốc Gia Kennesaw Mountain National Park, là địa điểm bãi chiến trường trong Chiến Dịch Atlanta xảy ra ngày 18 tháng 6 và kéo dài hai tuần lễ đến ngày 2 tháng 7 năm 1864. Lực lượng tấn công dưới quyền chỉ huy của tướng William T. Sherman gồm một trăm ngàn quân Liên Bang, 254 khẩu đại bác và 35 ngàn ngựa kỵ binh giao chiến với quân phòng thủ phe Hợp Bang của miền Nam gồm 63 ngàn binh sĩ và 187 khẩu súng đại bác đóng trên triền núi. Có tổng cộng tất cả 67 ngàn binh sĩ hai bên tử trận. Vì số tử vong quá lớn trên môt trận địa có nhiều bụi rậm trong rừng bao phủ núi cho nên mãi đến thời gian mấy mươi năm gần đây người ta vẫn còn tìm được thi hài của tử sĩ.

Từ Kennesaw Mountain đi về phía Nam 40 dặm là Jonesboro, quê hương của đồn điền Tara và đồn điền Mười Hai Cây Sồi , nghĩa trang Hợp Bang Patrick R. Cleburne, nơi chôn từ 600 đến 1000 binh sĩ phe miền Nam tử thương trong một trận đánh nhỏ ở Jonesboro trong hai ngày 31/8 và 1/9/1864 sau khi tướng Sherman đã chiếm được Atlanta.

Nếu chúng ta có lái xe đi trốn lạnh hoặc nghỉ hè ở Florida theo xa lộ I-75 thì nên ghé vào các nơi này xem cho biết.

Một số dữ kiện ít được biết đến về tiểu thuyết và phim Gone With The Wind:

Margaret viết chương cuối trước.

Khi được đưa cho nhà xuất bản, chương đầu viết chưa xong.

Thoạt đầu, Margaret Mitchell đặt tên cho nhân vật Scarlett là “Pansie.” (Nghe không hay tí nào!)

Tựa mà Margaret Mitchell chọn đặt ban đầu là “Tomorrow Is Another Day,” nhưng bị trùng với một quyển tiểu thuyết khác.

Nhân vật được Margaret ưa thích nhất trong Gone With The Wind là Melanie. Melanie được dựa theo một nhân vật thật ngoài đời là một bà có họ với Margaret  tên là Martha Ann “Mattie” Holliday. “Mattie” trót yêu con trai của bác ruột mình tên John Henry Holliday, một nha sĩ. Vì đạo lý gia đình ngăn cấm, “Mattie” đành đi tu và trở thành bà phước “Sister” Melanie, còn ông anh họ nha sĩ cũng bỏ đi về miền Tây và trở thành một tay cao thủ cờ bạc và một tay súng lì lợm có can dự vào cuộc đọ súng lịch sử ở Tomstone và OK Corral, bang Arizona. (Xin xem phim OK Corral để biết thêm về nhân vật này).

Nhân vật Rhett Butler không phải do khởi hứng từ ông chồng trước của bà tên Red Upshaw, một tay buôn rượu lậu và nghiện rượu như nhiều người lầm tưởng. Mãi về sau này, người ta mới biết đích xác người đó là ai. 

Ngày 4 tháng Tư năm 1989, tiến sĩ E. Lee Spence, một sử gia nổi tiếng thế giới trong lãnh vực nghiên cứu khảo cổ xác tàu chìm, ở Charleston, South Carolina, công bố một khám phá mới qua một quyển sách của ông có tựa đề là “Treasures of the Confederate Coast: The “Real Rhett Butler” and Other Revelations” (Các Kho Tàng Vùng Duyên Hải Hợp Bang: Nhân vật Rhett Butler Thật Và Nhiều Tiết Lộ Khác). Theo đó, ông cho rằng câu chuyện trong quyển tiểu thuyết GWTW hoàn toàn không hẳn là một sản phẩm của tưởng tượng. Ông chứng minh rằng thực ra Margaret Mitchell đã dựa theo chuyện thật về cuộc đời của George Alfred Trenholm, một anh chàng cao lớn đẹp trai gốc gác ở Charleston, South Carolina. Anh ta kiếm được bạc triệu nhờ vào việc tổ chức chở hàng lậu từ Bắc xuống Nam giữa thời kỳ phong toả của cuộc nội chiến và trở thành chủ ngân hàng giàu có, vơ vét ngân khố của Hợp Bang, và bị tống vào tù sau khi cuộc nội chiến chấm dứt. Những khám phá của tiến sĩ Spence tức khắc trở thành tin tức quốc tế đáng chú ý.

Qua quyển sách này, các cuộc nghiên cứu của tiến sĩ Spence cho thấy nhân vật thuyền trưởng lãng mạn Rhett Butler trong GWTW không ai khác hơn là Trenholm. Lúc cuộc nội chiến bùng nổ, Trenholm hầu như đang ở vào tình trạng khánh tận; thế mà khi cuộc binh đao đã qua, ông ta kiểm soát hơn 60 chiếc thương thuyền lớn chạy bằng hơi nước và nhiều thuyền buồm khác. Dịch vụ chở hàng lậu mang lại cho ông ta một số huê lợi tương đương với hàng tỉ bạc ngày nay và khiến cho ông ta trở thành một người cực kỳ giàu có và đầy quyền lực. Ðoàn hải thuyền của Trenholm xuôi ngược dọc qua các hải cảng Charleston, South Carolina, Wilmington, North Carolina, Savannah, Georgia, và thành phố New York.

Tuy nhiên, khác với Rhett Butler, Trenholm không phải chỉ là thuyền trưởng mà thôi (Nhiều người Việt chúng ta hiểu lầm chức vụ của Rhett Butler là đại úy, do chữ “captain” có hai nghĩa). Cuối cuộc chiến, không những ông ta là vị thuyền trưởng vượt phong tỏa thành công nhất của miền Nam, ông ta còn là giám đốc ngân khố của Hợp Bang. Khi người ta khám phá ra số vàng bạc và nữ trang thuộc công quỹ do ngân hàng và dân chúng ký thác trong ngân khố biến mất; nhiều người tin rằng chính Trenholm đã cuỗm số vàng bạc đó.

Sau chiến tranh, cả Rhett Butler trong tiểu thuyết lẫn Trenholm ngoài đời thật đều bị bỏ tù và tưởng đâu đã bị án tử hình. Cả hai đều có quả phụ thuộc gia đình danh giá và trẻ đẹp (có chồng sĩ quan tử trận trong chiến tranh) vào tù thăm viếng. Cả hai nổi tiếng ăn chơi trác táng nhưng vẫn được xã hội chấp nhận vì sự giàu sang.

Rất tiếc là Margaret Mitchell đã chết 40 năm rồi nên không thể đội mồ sống dậy mà biện hộ hay có đôi lời phải trái với chứng cớ khoa học đầy thuyết phục đó. Dù thế nào đi chăng nữa, dù chuyện thật hay hư cấu, CTCG vẫn mãi mãi được mọi giới đọc giả say mê, nhất là đọc giả phái nữ.

Margaret Mitchell được trả 50 ngàn đô cho tác quyền phim GWTW.

Ðể tìm ra người đóng vai Scarlett vừa ý phải mất hàng ngàn lượt phỏng vấn, 400 lượt diễn thử sơ khởi, 90 lượt quay thử, với phí tổn $100,000.

Có 449,512 feet phim được dùng quay; 160,000 feet được in ra; 20,300 feet còn lại sau cùng. Phim được cắt xén cho ngắn gọn từ 6 tiếng còn dưới 4 tiếng đồng hồ.

Phim có tổng cộng 59 diễn viên chính và diễn viên phụ trợ; 2,400 “extras” (chỉ xuất hiện nhưng không đối thoại) và 800 hình nộm.

Phim dùng 1,100 ngựa, 375 heo, lừa, bò, chó, và thú khác.

3,000 hình vẽ được phác hoạ, và 200 cảnh trí được tạo dựng.

Phí tổn thực hiện phim là $4.25 million, gồm luôn $5,000 tiền phạt vì dùng tiếng chửi thề “damn”.

Ngoại cảnh của Tara cũng được quay ở Hollywood.

 

Một số chi tiết của tiểu thuyết được lược bỏ hoặc thay đổi trong phim như sau:

Hai đứa con của hai người chồng đầu tiên của Scarlett là Wade Hampton and Ella Lorena bị lượt bỏ.

Trong tiểu thuyết, Charles Hamilton yêu Honey Wilkes trước khi tỏ tình với Scarlett; trong phim, anh ta yêu India Wilkes.

Trong tiểu thuyết, Rhett Butler vốn là một thuyền trưởng buôn lậu vượt qua sự phong toả đường biển của Bắc quân để mang đồ tiếp liệu bán cho cho phe miền Nam kiếm lời và làm giàu. Chi tiết này được giảm thiểu tối đa trong phim.

Trong tiểu thuyết, cảnh tượng Rhet Butler say rượu rồi yêu đương cuồng nhiệt mạnh bạo với vợ là Scarlett cũng bị lượt bỏ trong phim.

Hình ảnh cô gái giang hồ Belle Watling được khoác lên một nét trong sạch, thanh tao hơn trong phim; và cảnh Rhett buồn vợ rồi tìm quên nơi cô gái giang hồ đó cũng được thể hiện nhẹ nhàng bớt trong phim.

Mọi chi tiết nói đến hội kín Ku Klux Klan đều không được đề cập đến trong phim.

Sự khinh miệt của Rhett đối với Ashley trong tiểu thuyết cũng được phim làm dịu đi.

Câu cuối cùng Rhet nói trong tiểu thuyết là “My dear, I don’t give a damn.” Trong phim, Rhet nói: “Frankly my dear, I don’t give a damn.” Thật ra đây không phải là cuốn phim đầu tiên mà chữ “damn” được dùng vì phim Pygmalion chiếu năm trước đó cũng có dùng chữ “damn”. Nhà sản xuất phim Cuốn Theo Chiều Gió bị Ban Kiểm Duyệt phạt năm ngàn đô vì phim này quá nổi tiếng chăng.

Một số nhân vật phụ trong truyện bị lược bỏ trong phim như quản trại Will Benteen, Rosemary Butler em gái của Rhet, một người cậu của Scarlett và luật sư của Scarlett là Henry Hamilton.

 

Phan Hạnh, Toronto.

 

 

 


No comments:

Post a Comment