Cuốn Theo Chiều Gió
|
Kể
từ tháng Tám năm nay, cứ mỗi ngày Thứ Sáu, chúng tôi thường hay đi ra các vùng
ngoại ô khoảng cách trong vòng một hoặc hai giờ đồng hồ lái xe. Ngày Thứ Sáu 17
tháng Mười, ngay sau Lễ Tạ Ơn, chúng tôi lái xe đến vùng Halton Hills và
Caledon để chụp ảnh cảnh mùa thu có nhiều đồi và những con đường nhấp nhô uốn
khúc. Sau khi đã mải mê chụp nhiều ảnh đồi đất đỏ ở Cheltenham Badlands, chúng
tôi đến Forks of Credit Provincial Park để lội bộ theo đường mòn thiên nhiên
dài mấy cây số. Con đường khó đi hơn chúng tôi tưởng và mất nhiều thì giờ hơn,
ngang qua ao nước, đồng cỏ cao, lùm bụi, rừng thưa, dốc cao. Khi đến một khúc
sông trên thượng nguồn sông Credit, chúng tôi dừng lại nơi một cây cầu bắt qua
sông và đường tàu hỏa rồi quay trở về bãi đậu xe. Lúc bấy giờ đã 6 giờ chiều,
trời tháng Mười bắt đầu mau tối, chúng tôi cảm thấy hơi lạnh len lẻn ập đến
thấm qua làn áo. Trong ánh hoàng hôn chập choạng, những tia nắng chiều cuối
cùng xuyên qua cánh đồng đầy hoa ké màu trắng như bông vải. Hầu hết những hoa
ké tôi thấy đều đã bị sứt mẻ vì vài cánh mỏng manh đã bị gió thổi bay đi. Chợt
thấy một đóa còn nguyên vẹn hình hài đẹp quá, tôi tức cảnh sinh tình nên cố nán
lại phía sau để chụp thêm một vài tấm ảnh.
Ðến
ngày Thứ Sáu 5 tháng 12, trời bên ngoài đã lạnh lắm rồi, những tấm thân già
trên sáu bó (chữ của Công Tử Hà Ðông) chúng tôi chẳng dám uống thuốc liều lang
bang trong High Park nữa. Các đàn ngỗng Canada geese đã xuôi về miền Nam nắng
ấm mất hết cả rồi. Không phải là “chim tuyết”, chúng tôi đành rút tó vô condo
ngồi quây quần bên nhau vừa ăn vặt vừa xem lại phim Cuốn Theo Chiều Gió. Dạ thưa vâng, chúng tôi xem lại, vì trước đó
đã xem rồi vài lần. Phim hay thì dù xem lại vẫn thấy hay. Có người xem rồi mấy
lần vẫn chưa hiểu hết, tức quá, kiếm truyện đọc. Có người đọc truyện trước,
thấy hay qua, kiếm phim xem. Bạn tôi cho biết, có một người bạn của bạn tôi,
đọc Gone With The Wind bảy, tám lần! Nghe tưởng là khó tin nhưng sự thật có khi
còn hơn thế nữa. Bằng chứng là kể từ khi sách in ra năm 1936 và phim chiếu ra
năm 1939 cho đến nay, sau hơn 70 năm, cả hai vẫn tiếp tục tạo nhiều kỷ lục.
Tại sao
Gone With The Wind, cả tiểu thuyết lẫn phim, có sức thu hút người đọc và người
xem đến thế? Trước khi có được câu trả lời thích đáng, chúng tôi xin tình
nguyện “xuất hồn” đi ngược dòng thời gian để gặp Margaret (Peggy) Mitchell,
người mẹ tinh thần sinh ra Gone With The
Wind (GWTW) và xin bà dành cho một cuộc phỏng vấn.
(Phóng viên) Mít: Hi, Peggy! Tôi là Mít,
phóng viên đài phát thanh người Việt CH9 (viết tắt của 9 chữ bắt đầu bằng CH là
CHẳng CHịu CHờ CHết - CHọc CHo CHúng CHửi CHơi), trước hết xin chân thành cảm
tạ Peggy đã dành thì giờ vàng ngọc cho cuộc phỏng vấn này. Xin Peggy cho biết
Peggy sáng tác GWTW trong trường hợpnào?
Peggy: Thật ra tôi vốn có tính chây
lười và ham chơi lắm. Tôi làm cái gì cũng là làm chơi chơi thôi. Số là từ khi
còn bé, tôi đã thích cưỡi ngựa, nhưng một lần bị té nặng đã làm cho cổ chân của
tôi trở nên yếu đi. Ðến năm 26 tuổi, tôi vẫn sống ở Atlanta là nơi tôi chào
đời. Sự nghiệp viết lách không đi đến đâu lại đau yếu, có lúc tôi cảm thấy chán
nản xuống tinh thần muốn bỏ dở luôn chuyện sáng tác. May nhờ có John Marsh,
chồng tôi, một giám đốc quảng cáo, tin tưởng ở tài năng tôi và tìm cách áp lực
tôi tiếp tục cầm bút. Trong 5 năm đầu (1925,
1930), tôi viết nhiều và đều đặn. Tôi dùng bối cảnh của cuộc nội chiến vốn đã
chấm dứt 60 năm trước. Ðến năm lên 10 tuổi, tôi vẫn chưa biết là miền Nam thua
trận. Mẹ của tôi phải đưa tôi ra vùng quê ngoại ô, chỉ cho tôi thấy dấu tích
hoang tàn còn sót lại của các ngôi nhà nông trại cháy nám rồi nói lên sự thật
quan trọng ấy cho tôi biết. Sau này tôi cứ bị câu chuyện kể về sự bại trận ám
ảnh mãi và cuộc chiến huynh đệ tương tàn luôn luôn là chiếc bóng đi bên cạnh
đời tôi. Tôi không cần phải nói, ông là người miền Nam nước Việt Nam của ông và
đã kinh qua biến cố 30 tháng Tư 1975, chắc ông cũng biết cái cảm giác đó nó như
thế nào rồi, phải không ông Mít?
Mít: Dạ tôi đang phỏng vấn Peggy
chứ không phải Peggy đang phỏng vấn tôi; vì thế tôi xin miễn trả lời.
Peggy: Anyway, tôi lớn lên trong một
thành phố nơi mà những kỷ niệm qua con người và các địa danh vẫn còn sống động;
và một chuyến đi viếng thăm bà con bên ngoại ở một nông trại cách Atlanta 20
dặm về phía Nam đã chờn vờn mãi trong tâm trí tôi. Nông trại ấy từng do bà
ngoại tôi làm chủ sau khi bà ấy đã phải di tản khỏi thành phố Atlanta khi đạo
quân của tướng Sherman tiến vào. Hoàn cảnh người dân miền Nam của ông chắc cũng
tương tự như vậy khi xe tăng Bắc Cộng tiến vào Saigon, có phải không ông Mít?
Mít: Xin nhắc lại một lần nữa là
tôi đang phỏng...
Peggy: Biết rồi. Xin lỗi. Tôi kể đến
đâu rồi nhỉ? À! Lúc khởi sự viết, tôi chỉ biết đoạn kết cuộc và đoạn đầu của
câu chuyện; và tôi chọn viết đoạn kết trước. Rhett Butler nói câu, “Frankly, my
dear, I don’t give a damn!” với vợ là Scarlett rồi bỏ đi không bao giờ trở lại.
Câu này tôi thuỗng của ông chồng trước của tôi khi tôi bỏ ổng đặng lấy ông
chồng hiện giờ.
Mít: Mít tôi và vô số người Việt
sống lưu vong cũng ôm mộng viết hồi ký hoặc tiểu thuyết. Vậy Peggy có thể cho
biết bí quyết viết thế nào để thành công?
Peggy: Tôi chẳng có bí quyết gì cả;
tôi chỉ viết tùy hứng, bạ đâu viết đó. Thật ra tôi ít khi viết diễn biến câu
chuyện một cách liên tục. Tôi nhảy từ đoạn này sang đoạn khác, đứt quãng nhiều
năm. Viết một chương xong, tôi bỏ vào phong bì giấy dầu, đánh dấu, rồi quẳng nó
qua một bên. Trải qua nhiều năm tháng, những phong bì này trở nên phai màu hoặc
dính đầy vết vấy cà phê tôi làm đổ. Có khi lười tìm giấy trắng, tôi còn nguệch
ngoạc viết bừa lên bên ngoài phong bì cái “list” đi chợ ghi ra các món cần mua.
Mít: Có ai biết là Peggy đang viết
tiểu thuyết và khích lệ Peggy không?
Peggy: Ngoài chồng tôi ra, không ai
khác biết là tôi đang viết tiểu thuyết. Tôi là người có tính vô cùng tự kỷ ám
thị về phẩm chất văn chương của mình. Tôi rất thiếu tự tin, lúc nào cũng chỉ sợ
nó dở và bị người ta chê bai. Có lần, tôi còn lấy một xấp bản thảo để kê chân
bàn cho nó khỏi chông chênh. Tôi giấu bài viết của tôi như mèo giấu c... Xin
lỗi. Ðáng nhẽ tôi không nên dùng từ ngữ thô tục. Ý tôi muốn nói là chỉ có chồng
tôi được phép đọc qua bản nháp lúc bấy giờ. Khi có bạn đến thăm, tôi phải vội
vàng giấu bản thảo dưới nệm giường hoặc sofa. Trường hợp bạn đến thình lình,
tôi còn phải vội vơ đại khăn lau chén phủ lên máy đánh chữ nữa đấy. Nhưng tôi
cũng có bật mí đôi chút cho Lois Cole, một người bạn sau đó lên New York làm
việc cho nhà xuất bản McMillan.
Mít: À thì ra Peggy có “connection”?
Peggy: “Connection” cái con khỉ! Tôi
viết cốt để giết thì giờ thôi chứ đâu có nghĩ là sách mình sẽ được xuất bản.
Mít: Thế Peggy viết mất bao lâu
mới xong?
Peggy: Tôi bắt đầu ngồi gõ chữ từ
năm 1925. Sau 5 năm dài vắt tim óc để đánh máy hàng ngàn trang giấy, tôi cũng
chỉ mới hoàn tất được 2/3 quyển truyện. Phần chưa viết gồm có chương đầu, một
số đoạn nối kết và tựa sách. Tôi phân vân giữa các lựa chọn: Tomorrow Is
Another Day (Mai Lại Một Ngày), Bugles Sang True (Trỗi Thật Ðiệu Kèn), Not In Our
Stars (Không Phải Số Mình), và Tote the Weary Load (Hành Trang Mang Nặng) nhưng
vẫn chưa hài lòng. Lúc bấy giờ, cổ chân tôi hết đau; tôi tạm quên gánh nặng
viết lách để hòa mình vào những sinh hoạt bình thường mà tôi yêu thích như gặp
gỡ bạn bè trong các buổi ra ngoài đi dạo, đi ăn trưa, ăn tối, lễ hội, khiêu vũ,
v.v. Thấy tôi lơ là, chồng tôi lại làm áp lực hối thúc. Chúng tôi dọn nhà, đống
bản thảo nằm trong xó tủ. Năm 1934, tôi bị trặc cổ trong một tai nạn xe hơi;
thế là lại ngưng viết. Ðến khi nhà xuất bản đồng ý in sách cho tôi thì tôi mới
phấn khởi và lên tinh thần trở lại. Tôi lại moi óc và tra cứu tài liệu để viết
tiếp. Nói để ông thương chứ sau gần mười năm trời cặm cụi ngồi gõ chữ mà tôi
vẫn chưa hoàn tất quyển truyện. Tôi thay tên các nhân vật chính khá nhiều lần:
Pansie thành Scarlett, Permelia thành Melisande rồi thành Melanie; đổi tên
trang trại Fontenoy Hall thành Tara, v.v.
Mít: Thế cái tựa Gone With The
Wind Peggy chọn sau cùng là do đâu mà có?
Peggy: Về phần cái tựa, vốn là một
người yêu thích thơ văn, một hôm tình cờ tôi nhớ lại bài thơ 24 câu có tựa đề
chữ La Tinh là Non Sum Qualis Eram Bonae sub Regno Cynarae (một câu của thi hào
La Mã Horace), theo Anh ngữ có nghĩa là “I am not as I was under the reign of
the good Cynara” (vì thế người ta thường gọi tắt tựa bài thơ là Cynara) của thi
sĩ người Anh Ernest Christopher Dowson (1867–1900), trong đó có một đoạn như
sau:
I
have forgot much, Cynara! gone with the wind,
Flung
roses, roses riotously with the throng,
Dancing,
to put thy pale, lost lilies out of mind;
But
I was desolate and sick of an old passion,
Yea,
all the time, because the dance was long:
I
have been faithful to thee, Cynara! in my fashion.
Tôi lấy
làm mừng rỡ vì bốn chữ Gone With The Wind vừa phù hợp với chủ đề của tác phẩm
vừa mang âm điệu thi vị lắm. Ông Dowson dùng câu thơ của Horace được thì tôi
cũng dùng câu thơ của ông ta được, đâu có chết thằng Tây nào. Chắc ông cũng
biết, Cynara theo chữ La Tinh là tên của loài cỏ dại, tên Anh ngữ là thistle;
trái của nó bao bọc bên ngoài nhiều gai mà người Việt ông gọi là trái ké; ai đi
lội vô chỗ đó dễ bị nó dính hai ống quần (Peggy rành sáu câu!). Hoa ké trắng
như bông vải, hình cầu có nhiều cánh nhỏ hình thù như một cánh dù mang hạt nhỏ
xíu thường tung bay tơi tả trong không khí khi có gió nổi lên. Hồi còn học bậc
tiểu học ở Việt Nam, chắc ông từng dùng từ điển Larousse của Pháp hẳn không
quên nhãn hiệu có hình hoa ké và câu phương châm “Je sème à tout vent”, tôi nói
có đúng không?
Mít: À ...ờ...dạ vâng. Ðúng. Peggy
có đưa một phần nào về kinh nghiệm đời thật của mình vào tiểu thuyết hay không?
Peggy: Tôi quan niệm tiểu thuyết
phải dựa vào sự kiện thật ngoài đời mới là tiểu thuyết hay. Sự hư cấu là để tô
vẽ cho bức tranh thật trở nên bi hùng hơn. Có một số biến cố trong truyện phản
ảnh kinh nghiệm trong đời sống thật của tôi. Năm 1918, trong lúc tôi đang xa
nhà để theo học ở Massachusetts, mẹ tôi mất vì bệnh cúm ở Atlanta; trong
truyện, Scarlett trở về Tara và hay tin mẹ mất vì bệnh thương hàn. Cũng cùng
năm đó, tôi hứa hôn với một trung úy trẻ sang Pháp tham dự Ðệ Nhất Thế Chiến và
tử trận, cũng tương tự như người chồng đầu tiên của Scarlett vừa cưới xong thì
chết (tuy không vinh quang gì, vì là chết bệnh sưng phổi) trong khi còn đang
thời kỳ huấn luyện quân sự. Năm 1919, trong khi vẫn còn để tang mẹ vừa mất mấy
tháng trước, tôi đi dự một buổi dạ vũ từ thiện và nhảy múa điệu Apache vung vít
khiến cho thiên hạ xầm xì, cũng giống như Scarlett trong phim, còn mặc đồ đen
để tang chồng mà ra nhảy với Rhett tưng bừng làm cho các mợ sồn sồn ngứa mắt!
Năm 1920, một trận hỏa hoạn lớn xảy ra ở Atlanta, tôi phải làm việc suốt đêm
tại một trung tâm cấp cứu. Trong phim, Scarlett hớt hãi chạy khỏi Atlanta bừng
lửa trong kinh hoàng vừa thể hiện chuyện thật trong sử sách vừa là kỷ niệm
riêng của chính tôi đấy.
Mít: Bằng cách nào mà Peggy có thể
liên lạc được với nhà xuất bản? Tôi xin hỏi để rút kinh nghiệm.
Peggy: Tôi có liên lạc với nhà xuất
bản bao giờ đâu. Họ đi tìm tôi đấy chứ. Năm 1935, ông Harold Latham của nhà
xuất bản McMillan đến thành phố Atlanta để tìm kiếm những tay viết mới. Một
người bạn của tôi là Lois Cole cũng đang làm việc cho nhà xuất bản McMillan nên
có nhắc đến tôi cho Harold Latham biết. Vì thế khi đến Atlanta, ông Latham nhờ
tôi hướng dẫn cho ông ta đi tìm tài năng mới, nhưng tuyệt nhiên tôi chẳng dám
đá động gì đến tác phẩm của mình. Ông ta dặn hờ là nếu tôi có bản thảo truyện
nào thì hãy đưa cho ông ta xem trước. Tôi vẫn không chịu đưa bản thảo của chính
mình cho ông ta xem; vì theo sự nhận xét của tôi, GWTW dở quá làm cho tôi mắc
cỡ.
Mít: Thế thì do cơ duyên nào mà
GWTW lọt vào mắt xanh của nhà xuất bản?
Peggy: Thế rồi một hôm ngồi quán tán
láo chơi, có một người bạn nhận định về tôi như sau, “Nói thật nha, tao không
nghĩ mày thuộc loại nhà văn có thể viết một tác phẩm thành công. Mày không đủ
quyết tâm để trở thành một tiểu thuyết gia”. Bị chạm tự ái, tôi tức tốc chạy về
nhà chộp đống bản thảo đi tìm gặp ông Latham. Lúc ấy ông đang trọ ở khách sạn.
Tôi hồi hộp ngồi chờ ở đại sảnh. Vừa thấy ông ta xuống, tôi thẳng thừng đùa
đống bản thảo cao như núi về phía ông và bảo, “Ông cầm lấy cái của quỉ này đi
ngay không thôi tôi đổi ý bây giờ!” Ông ta phải chạy đi mua một cái valise
riêng để đựng nó đấy. Sau khi ông ấy rời thành phố Atlanta để về lại New York
rồi thì tôi mới lạnh cẳng đổi ý. Tôi tức tốc chạy ra bưu điện gởi ngay cho ông
một bức điện tín đòi ông trả bản thảo lại. Ông ta có nhận được bức điện tín đó
nhưng cứ lờ tôi đi và làm như không biết. Sau đó ông ta mới tiết lộ với tôi là
ông chưa từng thấy bản thảo nào bê bối như bản thảo của tôi. Nó vừa vàng ố, ẩm
mốc mà lại còn chi chít chỗ sửa bằng bút chì; ông ngồi trên xe lửa lắc lư con
tầu đi vừa đọc vừa ruả tôi quá chừng. Ấy vậy mà ông thính mũi đánh hơi biết
ngay đó là một tác phẩm ăn khách và hái ra tiền. Ông ta liền “offer” sẽ in, với
điều kiện là tôi phải viết nốt cho xong chương đầu còn thiếu, làm tôi tưởng tôi
nghe nhầm chứ!
Mít: Rồi sao nữa? Peggy kể gấp đi.
Chính tôi đây là một phóng viên lão làng (già, nhưng không lão luyện) mà còn
hồi hộp đây nè!
Peggy: Ông Mít ơi! Lúc ấy tôi lo
lắm! Tôi sợ khi tác phẩm của tôi tung ra rồi không biết người miền Nam có vui
lòng đón nhận nó hay không; hay là họ lại trách tôi nhắc chi đến chuyện tan
hàng thua trận, ông có hiểu không? Nếu họ không đón nhận GWTW, biết đâu tôi
cũng sẽ bị “quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh” và bị mọi người xa lánh. Ông
Latham gia hạn cho tôi trong 6 tháng phải hoàn toàn viết xong để in. Tôi phải
đọc tới đọc lui không biết bao nhiêu bận và sửa chữa các chi tiết để cho nó ăn
khớp với tài liệu sử.
Mít: Vậy sau khi sách tung ra rồi,
dư luận đọc giả toàn quốc nói chung và miền Nam nói riêng phản ứng ra sao?
Peggy: McMillan in và tung ra đợt
đầu mười ngàn cuốn tháng Tư 1936, tháng Bảy in thêm 50,000 cuốn nữa. In ra bao
nhiêu người ta mua hết bấy nhiêu. Chỉ trong sáu tháng đầu đã bán ra nửa triệu
cuốn và một năm sau hơn một triệu cuốn; tôi không thể tưởng tượng. Tờ New York
Times khen ngợi nhiệt liệt trên trang nhất, tờ New York Sun so sánh GWTW như
War and Peace của văn hào Nga Leon Tolstoy làm tôi nở mũi. Các tên tuổi lớn
trên văn đàn Mỹ đương thời như Stephen Vincent Benet, Robert Nathan, và nhà văn
H. G. Wells của Anh Quốc đang có mặt ở Mỹ lúc bấy giờ đều khen ngợi tôi. Ðiều
tôi vui mừng hơn hết là toàn thể báo giới miền Nam đều nồng nhiệt đón nhận đứa
con tinh thần của riêng tôi và của cả miền Nam thân yêu của tôi. Qua năm sau
thì tôi nhận được giải Pulitzer Prize.
Mít: Theo Peggy thì nhờ vào yếu tố
nào mà GWTW thành công?
Peggy: Về giá trị văn chương thì tôi
nghĩ GWTW cũng không hơn không kém các tác phẩm ăn khách khác. Sở dĩ nó thu hút
đọc giả, nhất là phái nữ, là vì nó đánh đúng tâm lý vai trò người phụ nữ cần có
cá tính mạnh có thể đương đầu với mọi thử thách cam go trong cuộc sống và nhất
là đương đầu trong mối liên hệ phái tính đối cực là người đàn ông. Tôi cố tình
để cho nàng có những khuyết điểm như nóng nảy, ích kỷ, đanh đá, khe khắc, nhất
là đối với gia nhân, vì tôi không muốn tạo ra một nhân vật nữ anh hùng toàn hảo
như trong thần thoại Hy Lạp. Tôi muốn nàng thật gần gũi với một mẫu phụ nữ mà
ta có thể gặp trong đời thường ở bất cứ đâu. Kể từ khi có Jane Eyre một trăm
năm trước đến bây giờ mới có Scarlett O’Hara xuất hiện. Nữ sĩ Charlotte Bronte
giới thiệu người con gái trẻ cương quyết tự giải phóng để trở nên độc lập trước
những áp lực xã hội dưới triều đại Victoria Anh Quốc. Tương tự như thế,
Scarlett O’Hara có đủ ý chí phản kháng lại mọi thống trị của phái nam. Ðẹp
quyến rũ, thông minh, sắc bén, với thể chất nhỏ nhắn nhưng trong nghịch cảnh
hay trong cơn cấp bách, nàng vẫn can đảm xoay sở không chịu khuất phục và hành
động xử sự bằng lý trí hơn là tình cảm như một đấng nam nhi. Chắc ông nhớ chứ:
cuối truyện, sau khi Rhett bỏ đi, Scarlett nói, “..Tara!...Home. I’ll go home,
and I’ll think of some way to get him back! After all, tomorrow is another
day!” (Tara!...Quê nhà. Phải, ta sẽ về, và bằng cách nào đó ta sẽ làm cho chàng
trở về với ta. Dù gì chăng nữa, ngày mai cũng chỉ là một ngày nữa thôi!). Ông
thấy không? Nàng chủ động tự quyết định đời mình; nàng sẽ phấn đấu để sống còn,
và tinh thần bất khuất của nàng nối tiếp cho cuộc khởi dậy của Jane Eyre. Ðó là
niềm hứng khởi cho phụ nữ chúng tôi ước vọng. Bằng quyết tâm, chúng tôi có thể
vượt qua được mọi trở ngại để vươn lên từ đống tro tàn để xây dựng lại từ đầu.
Tôi nghĩ đó là yếu tố chính của thành công. Nhưng tôi cũng muốn thú nhận với
ông một điều là nếu không có sự hỗ trợ và thúc đẩy của chồng tôi thì chắc là
tác phẩm GWTW không hề có.
Mít: Xin được phép hỏi Peggy câu
hỏi cuối là thường thường những câu chuyện tình đều có kết cuộc tốt đẹp kiểu
“They live happily together ever after”, vậy Peggy có định viết quyển kế tiếp
cho Scarlett gặp lại Rhett như ý nàng muốn hay không?
Peggy: Ông điên rồi sao? Tiền bản
quyền tôi kiếm được xài mãn đời không hết, tội gì tôi phải ngồi gõ lọc cọc nữa
cho mệt thân? Vả lại, tôi có nói với ông từ đầu là tính tôi chây lười và ham
chơi lắm. Thôi ông về lo viết chuyện của ông đi nhé. Bye ông.
Cuộc
đời có nhiều chuyện oái oăm; trong khi nhân vật Scarlett cương nghị và can đảm
đứng vững trước mọi vinh quang cũng như thất bại thì Margaret không được như
thế. Bà phải tìm sự trợ giúp nơi người chồng. Danh vọng và tiền tài đến với bà
có khi trở thành một sự đe dọa hơn là giải phóng. Bà càng trở nên an phận thúc
thủ hơn dưới bóng hôn nhân và không cầm bút nữa. Bà cảm thấy như bị vây hãm bởi
sự nổi tiếng của bà, sự chú ý theo dõi của giới truyền thông và sự ái mộ của
công chúng dành cho bà.
Năm
1945, chồng bà bị kích tim và sức khoẻ ông không bao giờ hồi phục như cũ. Bà
trở nên hiền thục hơn và càng giống như nhân vật Melanie trong tác phẩm của bà,
một người vợ dịu dàng thương yêu luôn luôn kiên nhẫn chịu đựng chăm sóc cho
chồng. Không ngờ số phận khiến cho bà ra đi trước. Bà mất năm 1949; chồng bà
mất năm 1952 và được chôn bên cạnh mộ bà tại nghĩa trang Oakland, Atlanta. Với
cả hai đời chồng, bà đều không có con.
Margaret
(Peggy) Mitchell từ giã cõi đời và hàng triệu triệu đọc giả của bà khắp nơi
trên thế giới năm 1949, hưởng thọ 48 tuổi. Ở thành phố Atlanta và vùng phụ cận
có nhiều viện bảo tàng cùng di tích lịch sử liên quan đến bà và GWTW.
Viện
bảo tàng GWTW được khánh thành ngày 15 tháng 12 năm 1999 để kỷ niệm 60 năm buổi
chiếu ra mắt phim cùng tên. Trong đó có trưng bày vô số các kỷ vật như một số
cảnh trí dàn dựng trong phim, bích chương, búp bê, trò chơi, đĩa tô, đồ trang
sức, y phục, các đoạn phim nhựa gốc dùng trong đêm chiếu ra mắt, và bản truyện
phim. Ngay sau lối cửa vào là bức tranh lớn của Scarlett với vết rượu đổ khi
Rhett ném ly rượu vào bức tranh đó trong phim.
Cách
viện bảo tàng Marietta chỉ hai dặm về hướng tây là Công Viên Quốc Gia Kennesaw
Mountain National Park, là địa điểm bãi chiến trường trong Chiến Dịch Atlanta
xảy ra ngày 18 tháng 6 và kéo dài hai tuần lễ đến ngày 2 tháng 7 năm 1864. Lực
lượng tấn công dưới quyền chỉ huy của tướng William T. Sherman gồm một trăm
ngàn quân Liên Bang, 254 khẩu đại bác và 35 ngàn ngựa kỵ binh giao chiến với
quân phòng thủ phe Hợp Bang của miền Nam gồm 63 ngàn binh sĩ và 187 khẩu súng
đại bác đóng trên triền núi. Có tổng cộng tất cả 67 ngàn binh sĩ hai bên tử trận.
Vì số tử vong quá lớn trên môt trận địa có nhiều bụi rậm trong rừng bao phủ núi
cho nên mãi đến thời gian mấy mươi năm gần đây người ta vẫn còn tìm được thi
hài của tử sĩ.
Từ
Kennesaw Mountain đi về phía Nam 40 dặm là Jonesboro, quê hương của đồn điền
Tara và đồn điền Mười Hai Cây Sồi , nghĩa trang Hợp Bang Patrick R. Cleburne,
nơi chôn từ 600 đến 1000 binh sĩ phe miền Nam tử thương trong một trận đánh nhỏ
ở Jonesboro trong hai ngày 31/8 và 1/9/1864 sau khi tướng Sherman đã chiếm được
Atlanta.
Nếu chúng
ta có lái xe đi trốn lạnh hoặc nghỉ hè ở Florida theo xa lộ I-75 thì nên ghé
vào các nơi này xem cho biết.
Một số dữ kiện ít được biết đến về tiểu thuyết và phim Gone With The Wind:
Margaret
viết chương cuối trước.
Khi
được đưa cho nhà xuất bản, chương đầu viết chưa xong.
Thoạt
đầu, Margaret Mitchell đặt tên cho nhân vật Scarlett là “Pansie.” (Nghe không
hay tí nào!)
Tựa mà
Margaret Mitchell chọn đặt ban đầu là “Tomorrow Is Another Day,” nhưng bị trùng
với một quyển tiểu thuyết khác.
Nhân
vật được Margaret ưa thích nhất trong Gone With The Wind là Melanie. Melanie
được dựa theo một nhân vật thật ngoài đời là một bà có họ với Margaret tên là Martha Ann “Mattie” Holliday. “Mattie”
trót yêu con trai của bác ruột mình tên John Henry Holliday, một nha sĩ. Vì đạo
lý gia đình ngăn cấm, “Mattie” đành đi tu và trở thành bà phước “Sister”
Melanie, còn ông anh họ nha sĩ cũng bỏ đi về miền Tây và trở thành một tay cao
thủ cờ bạc và một tay súng lì lợm có can dự vào cuộc đọ súng lịch sử ở Tomstone
và OK Corral, bang Arizona. (Xin xem phim OK Corral để biết thêm về nhân vật
này).
Nhân
vật Rhett Butler không phải do khởi hứng từ ông chồng trước của bà tên Red
Upshaw, một tay buôn rượu lậu và nghiện rượu như nhiều người lầm tưởng. Mãi về
sau này, người ta mới biết đích xác người đó là ai.
Ngày 4
tháng Tư năm 1989, tiến sĩ E. Lee Spence, một sử gia nổi tiếng thế giới trong
lãnh vực nghiên cứu khảo cổ xác tàu chìm, ở Charleston, South Carolina, công bố
một khám phá mới qua một quyển sách của ông có tựa đề là “Treasures of the
Confederate Coast: The “Real Rhett Butler” and Other Revelations” (Các Kho Tàng
Vùng Duyên Hải Hợp Bang: Nhân vật Rhett Butler Thật Và Nhiều Tiết Lộ Khác).
Theo đó, ông cho rằng câu chuyện trong quyển tiểu thuyết GWTW hoàn toàn không
hẳn là một sản phẩm của tưởng tượng. Ông chứng minh rằng thực ra Margaret
Mitchell đã dựa theo chuyện thật về cuộc đời của George Alfred Trenholm, một
anh chàng cao lớn đẹp trai gốc gác ở Charleston, South Carolina. Anh ta kiếm
được bạc triệu nhờ vào việc tổ chức chở hàng lậu từ Bắc xuống Nam giữa thời kỳ
phong toả của cuộc nội chiến và trở thành chủ ngân hàng giàu có, vơ vét ngân
khố của Hợp Bang, và bị tống vào tù sau khi cuộc nội chiến chấm dứt. Những khám
phá của tiến sĩ Spence tức khắc trở thành tin tức quốc tế đáng chú ý.
Qua
quyển sách này, các cuộc nghiên cứu của tiến sĩ Spence cho thấy nhân vật thuyền
trưởng lãng mạn Rhett Butler trong GWTW không ai khác hơn là Trenholm. Lúc cuộc
nội chiến bùng nổ, Trenholm hầu như đang ở vào tình trạng khánh tận; thế mà khi
cuộc binh đao đã qua, ông ta kiểm soát hơn 60 chiếc thương thuyền lớn chạy bằng
hơi nước và nhiều thuyền buồm khác. Dịch vụ chở hàng lậu mang lại cho ông ta
một số huê lợi tương đương với hàng tỉ bạc ngày nay và khiến cho ông ta trở
thành một người cực kỳ giàu có và đầy quyền lực. Ðoàn hải thuyền của Trenholm
xuôi ngược dọc qua các hải cảng Charleston, South Carolina, Wilmington, North
Carolina, Savannah, Georgia, và thành phố New York.
Tuy
nhiên, khác với Rhett Butler, Trenholm không phải chỉ là thuyền trưởng mà thôi
(Nhiều người Việt chúng ta hiểu lầm chức vụ của Rhett Butler là đại úy, do chữ
“captain” có hai nghĩa). Cuối cuộc chiến, không những ông ta là vị thuyền
trưởng vượt phong tỏa thành công nhất của miền Nam, ông ta còn là giám đốc ngân
khố của Hợp Bang. Khi người ta khám phá ra số vàng bạc và nữ trang thuộc công
quỹ do ngân hàng và dân chúng ký thác trong ngân khố biến mất; nhiều người tin
rằng chính Trenholm đã cuỗm số vàng bạc đó.
Sau
chiến tranh, cả Rhett Butler trong tiểu thuyết lẫn Trenholm ngoài đời thật đều
bị bỏ tù và tưởng đâu đã bị án tử hình. Cả hai đều có quả phụ thuộc gia đình
danh giá và trẻ đẹp (có chồng sĩ quan tử trận trong chiến tranh) vào tù thăm
viếng. Cả hai nổi tiếng ăn chơi trác táng nhưng vẫn được xã hội chấp nhận vì sự
giàu sang.
Rất
tiếc là Margaret Mitchell đã chết 40 năm rồi nên không thể đội mồ sống dậy mà
biện hộ hay có đôi lời phải trái với chứng cớ khoa học đầy thuyết phục đó. Dù
thế nào đi chăng nữa, dù chuyện thật hay hư cấu, CTCG vẫn mãi mãi được mọi giới
đọc giả say mê, nhất là đọc giả phái nữ.
Margaret
Mitchell được trả 50 ngàn đô cho tác quyền phim GWTW.
Ðể tìm
ra người đóng vai Scarlett vừa ý phải mất hàng ngàn lượt phỏng vấn, 400 lượt
diễn thử sơ khởi, 90 lượt quay thử, với phí tổn $100,000.
Có
449,512 feet phim được dùng quay; 160,000 feet được in ra; 20,300 feet còn lại
sau cùng. Phim được cắt xén cho ngắn gọn từ 6 tiếng còn dưới 4 tiếng đồng hồ.
Phim có
tổng cộng 59 diễn viên chính và diễn viên phụ trợ; 2,400 “extras” (chỉ xuất
hiện nhưng không đối thoại) và 800 hình nộm.
Phim
dùng 1,100 ngựa, 375 heo, lừa, bò, chó, và thú khác.
3,000
hình vẽ được phác hoạ, và 200 cảnh trí được tạo dựng.
Phí
tổn thực hiện phim là $4.25 million, gồm luôn $5,000 tiền phạt vì dùng tiếng
chửi thề “damn”.
Ngoại
cảnh của Tara cũng được quay ở Hollywood.
Một số
chi tiết của tiểu thuyết được lược bỏ hoặc thay đổi trong phim như sau:
Hai đứa
con của hai người chồng đầu tiên của Scarlett là Wade Hampton and Ella Lorena
bị lượt bỏ.
Trong
tiểu thuyết, Charles Hamilton yêu Honey Wilkes trước khi tỏ tình với Scarlett;
trong phim, anh ta yêu India Wilkes.
Trong
tiểu thuyết, Rhett Butler vốn là một thuyền trưởng buôn lậu vượt qua sự phong
toả đường biển của Bắc quân để mang đồ tiếp liệu bán cho cho phe miền Nam kiếm
lời và làm giàu. Chi tiết này được giảm thiểu tối đa trong phim.
Trong
tiểu thuyết, cảnh tượng Rhet Butler say rượu rồi yêu đương cuồng nhiệt mạnh bạo
với vợ là Scarlett cũng bị lượt bỏ trong phim.
Hình
ảnh cô gái giang hồ Belle Watling được khoác lên một nét trong sạch, thanh tao
hơn trong phim; và cảnh Rhett buồn vợ rồi tìm quên nơi cô gái giang hồ đó cũng
được thể hiện nhẹ nhàng bớt trong phim.
Mọi chi
tiết nói đến hội kín Ku Klux Klan đều không được đề cập đến trong phim.
Sự
khinh miệt của Rhett đối với Ashley trong tiểu thuyết cũng được phim làm dịu
đi.
Câu
cuối cùng Rhet nói trong tiểu thuyết là “My dear, I don’t give a damn.” Trong
phim, Rhet nói: “Frankly my dear, I don’t give a damn.” Thật ra đây không phải
là cuốn phim đầu tiên mà chữ “damn” được dùng vì phim Pygmalion chiếu năm trước
đó cũng có dùng chữ “damn”. Nhà sản xuất phim Cuốn Theo Chiều Gió bị Ban Kiểm
Duyệt phạt năm ngàn đô vì phim này quá nổi tiếng chăng.
Một số
nhân vật phụ trong truyện bị lược bỏ trong phim như quản trại Will Benteen,
Rosemary Butler em gái của Rhet, một người cậu của Scarlett và luật sư của
Scarlett là Henry Hamilton.
Phan Hạnh, Toronto.
No comments:
Post a Comment