Lan Man Chuyện Câu Cá
Phan Hạnh, Toronto.
Ngày 3 tháng Sáu, 2009, nhật báo Toronto
Star có đăng một bài viết của phóng viên Raveena Aulakh tường thuật vấn
đề dân câu gốc châu Á ở tỉnh bang Ontario đi câu mà cảm thấy bất an vì gặp phải
sự kỳ thị của dân câu người bản xứ. Bài viết cho rằng
bất chấp Ủy Ban Nhân Quyền Ontario đã tích cực tìm mọi phương thức giải quyết,
dân câu gốc châu Á vẫn cảm thấy họ tiếp tục bị quấy nhiễu. Chính bà Ủy Viên
Barbara Hall cũng nhìn nhận như thế, “There's a lot that has been done but more
work needs to be done” trong buổi lễ công bố bản báo cáo sau cùng tại một buổi
dạ vũ ở Markham. Vụ đáng tiếc mới nhất xảy ra cuối tháng Giêng vừa qua và có
một số người can dự đã bị bắt về tội thù ghét người khác (hate crimes). Do
khuyến cáo của Ủy Ban, cảnh sát đã tăng cường sự tuần tra ở các tụ điểm câu cá
đồng bộ với chiến dịch Bạn Ði Câu Ðừng Sợ (Fish
Without Fear). Bộ Tài Nguyên Thiên Nhiên cũng tu chỉnh các điều lệ câu cá
năm 2009 để bao gồm thông điệp chống kỳ thị chủng tộc. Âu cũng vì sự khác biệt
văn hóa và nếp suy nghĩ.
Thật sự vấn đề này đã ngấm ngầm
xảy ra từ vài năm nay trong mức độ tương đối không nghiêm trọng lắm. Hơn nữa,
các nạn nhân bị sách nhiễu chỉ được gọi chung là người dân châu Á và căn cứ
theo tên họ, phần lớn họ là người gốc Trung Hoa chứ không phải chỉ riêng người
Việt như một cái tựa mang tính cách giật gân trên báo mạng ở Cali hồi năm ngoái
(tin Người Việt Câu Cá Bị
Kỳ Thị Tại Canada nơi địa chỉ trang
mạng: http://www.calitoday.com/news/view_article.html?article_id=62603194dbdc1875abbe67fc102d6200).
Phần đông di dân gốc Á Ðông như Mít ta
thường hay đi câu với cả gia đình, một sinh hoạt lành mạnh không có gì đáng
phàn nàn. Dân bản xứ quan niệm về câu cá hơi khác chúng ta; cho nên đã từng xảy
ra vài sự đụng chạm. Khác biệt văn hóa mà, làm sao tránh khỏi.
Họ câu cá trong im lặng, còn người Á đông
thì ... hơi ồn ào, đi câu chỗ công cộng mà cứ tự nhiên như ở nhà, vừa câu vừa
mở loa miệng hết volume đấu hót bằng tiếng mẹ đẻ thoải mái. Câu được cá, dù là
con cá nhỏ xíu, đàn bà con nít phe Á đông reo lên mừng rỡ chạy tới chạy lui tíu
tít và gỡ cá bỏ bào giỏ. “Baby killer!”, một tay câu da trắng liếc qua và bình
luận bâng quơ. Một tay khác sẵn trớn xầm xì, “Asian invasion!”, cuộc xâm lấn
bởi dân châu Á!. Ðó là từ ngữ dân câu người bản địa gọi thầm để ám chỉ đám dân
câu da vàng mũi tẹt, có thể là Tàu, Phi, Nam Dương, Ðại Hàn, Thái Lan, Miến
Ðiện, Miên, Lào, hay Mít ta, mỗi khi họ đang câu yên ổn mà bị quấy rầy. Một lời
cay độc thốt ra bất chợt trong lúc bực mình, hay phản ứng kỳ thị chủng tộc?
Những vụ xung đột nho nhỏ đã xảy ra. Dân câu gốc Á bị xỉ vả bằng lời, bị giật
lấy đồ nghề câu, bị ném đá, và bị xô té xuống nước. Chính phủ Ontario đã phải
lập ra một ủy ban tra vấn Asian Canadian Angler Inquiry hồi tháng Mười Một năm 2007 để tìm biện pháp
giải quyết thỏa đáng. Ủy ban đã ghi nhận 30 vụ khai báo người câu gốc dân châu
Á bị sách nhiễu phần lớn xảy ra tại các vùng hồ Simcoe, Peterborough và Rideau
Locks (hệ thống các trạm khóa nước để đưa ghe tàu lên xuống trên kinh đào Rideau).
Tháng Năm năm 2008, Ủy Ban đã đưa ra bảng
tổng kết 50 điểm nhận xét và khuyến cáo. Và hôm nay, vấn
đề coi như đã được chính phủ giải quyết xong mặc dù dư luận người gốc Hoa, qua
lời tuyên bố của luật sư Avvy Go, có vẻ vẫn chưa hài lòng.
Dạo nầy, tôi nghỉ hưu nằm nhà, tự do muốn
ăn muốn ngủ bao nhiêu thả cửa, nhưng buổi sáng vẫn cứ mở mắt không ra. Cuối
tuần có người đi câu rủ rê, tôi nói ừ, đi thì đi theo chơi cho biết thử xem có
bị kỳ thị hay không. Chúng tôi đến khúc sông Credit River (chạy dọc theo con
đường nhà giàu Mississauga Rd.) ở khoảng Dundas St.W. Người câu ở đây có Tàu,
Phi, Việt, da trắng, da đen, da vàng đủ cả. Mạnh ai nấy câu, mọi người đều vui
vẻ. Cá salmon, cá lake trout bự tổ chảng. Người muốn thả xuống, người khác đến
xin mang về nhà, không sao cả! Ðây là chốn công cộng, chẳng phải xóm nhà của
riêng ai mà bảo là “xin đừng làm ồn để cho người cần sự yên tĩnh nghỉ ngơi”.
Nghe theo lời khuyên của học giả Nguyễn
Hiến Lê, hễ đọc sách là tôi ghi ghi chép chép những chú thích và trích dẫn để
dành làm tài liệu và dữ kiện viết bài. Tôi chỉ giỏi tài viết chuyện bá láp tầm
phào, tản mạn tùm lum hết, từ trăng trên trời xuống cái chết dưới đất, từ
chuyện xưa trong lịch sử đến chuyện khủng hoảng kinh tế hiện tại. Có những chi
tiết lịch sử rất thú vị mà hồi còn mài đũng quần trên ghế nhà trường tôi chưa
biết, chẳng hạn như chuyện ông vua Lê Đại Hành (940-1005) của nước ta thích câu
cá hơn là tiếp rước sứ Tàu. Sứ Tàu mang chiếu chỉ sắc phong của vua nhà Tống
ban cho, ông viện cớ đau chân vì bị ngã ngựa nên nhận tờ chiếu không được. Vậy
mà liền sau đó, ông cởi bỏ hết cân đai áo mão rồi cầm cần câu lội chân đất đi
câu cá; mỗi lần giật lên được một con cá là ông reo vui ầm ĩ, rồi vừa uống rượu
vừa ca hát líu lo, "chẳng ai hiểu là hát gì" theo như lời sứ Tàu báo
cáo lại trong tờ sớ dâng vua nhà Tống. Thế mới biết nhiều vua chúa của ta rất
bình dân, vì thực ra họ xuất thân từ hàng dân giả, lúc nước nhà gặp nạn ngoại
xâm thì họ tự động chống giặc cứu nước. Và khi cần quên ba cái chuyện lẻ tẻ như
tiếp sứ Tàu thì cứ câu cá tỉnh bơ, thật đã vô cùng!
Một ngày nọ ông Câu Xỉn bơi xuồng đi câu.
Ông thấy có một con rắn nước ngậm một con ếch trong miệng đang bơi bên mạn
thuyền. Tội nghiệp con ếch, ông với tay gỡ nó ra khỏi miệng rắn và thả cho nó
đi. Nhưng rồi ông lại tội nghiệp con rắn vừa bị mất một bữa ăn. Ông chỉ có chai
rượu, ngoài ra không có thức ăn gì khác. Thế là ông rót vào miệng con rắn một
tợp rượu. Con rắn vui vẻ, con ếch cũng vui vẻ, và ông Câu Xỉn cũng vui lây vì
đã làm một chuyện có nghĩa. Tưởng như vậy đã yên, nhưng độ một lúc sau, ông lại
thấy con rắn lúc nãy xuất hiện bên mạn thuyền. Lần này, trong miệng nó có hai
con ếch!
Tháng Tư là tháng cá vượt vũ môn, cá salmon,
trout từ hồ Ontario cuồng chân ngứa cẳng (?) sau mùa đông dài nên nhập bọn cùng
lội ngược dòng nước các sông Don, Humber, Credit trong vùng đại đô thị Toronto
lên thượng nguồn để truyền giống. Cá cái thì đẻ trứng, thả trứng ra ào ào như
B.52 trải thảm. Cá đực thì đi theo để ...đóng góp một chút gì bằng cách xịt
tinh trùng lên đám trứng kia, như thể phi cơ trinh sát thả trái khói đánh dấu
mục tiêu! Nếu như vậy mà gọi là “having sex” hoặc “mating” thì thật oan cho cá
quá! Theo khảo sát khoa học thì cá trống hay cá đực của chín phần mười các
giống cá có xương đều không có bộ phận sinh dục, dù là nhỏ xíu bằng hạt đậu!
Thơ rằng: “Kiếp sau nếu chẳng được làm người/Cũng xin đừng làm cá người ta cười
không có...chim.”
Câu cá ở quê mình ngày xưa được coi là một
phương cách kiếm thức ăn hàng ngày cho gia đình hơn là thú tiêu khiển thuần
túy. Ta câu được cá thì ta đem về nấu canh chua, kho tộ, chiên giòn dầm nước
mắm, xong được một bữa cơm chiều. Muốn cho ra vẻ tiệc tùng thì nướng trui cá
lóc làm gỏi cuốn bánh tráng. Không có cái vụ làm sang câu cá lên, cẩn thận gỡ
cá khỏi lưỡi câu và từ từ thả cá xuống cho nó trở về với sông nước và đoàn tụ
với gia đình... của nó.
Ngày nay ở xứ người, chúng ta đi câu không
phải vì mục đích kiếm cá ăn nữa. Chúng ta đi câu để giải trí và vui chơi với
gia đình, coi như một chuyến picnic, có cá thì càng tốt, mà không có cá cũng
chẳng chết đói, cùng lắm là trên đường lái xe về nhà ghé tạt qua siêu thị mua
một mớ cũng xong.
Dân câu người bản xứ đâu có hiểu rằng họ
câu cá lên rồi bỏ cá xuống, chừng ra về tay không cũng khoẻ re. Còn phe ta câu
được cá thì giữ cá, vì lẽ đó phải có các bà theo để làm cá chứ. Mà các bà theo
thì mấy đứa con để ở nhà ai chăn giữ chúng nó đây? Hơn nữa, để ông xã đi câu
một mình mất công sinh nghi, tối ngủ không yên, chồng đi câu về, vợ mất công
điều tra:
Em hỏi anh đêm nay đi đâu?
Anh nói rằng anh đi giăng câu,
Anh đi giăng câu trên chiếc xuồng câu,
Anh có cây sào anh chống ào ào.
....
Em hỏi anh giăng câu ra sao?
Anh thả mồi anh đem câu giăng,
Anh đem câu giăng con cá nào ăn,
Con cá ham mồi con cá rồi đời.
Em hỏi anh giăng câu vui hông?
Anh nói rằng anh vui sao không,
Anh vui sao không như cá về sông
Như sáo xổ lồng như sáo xổ lồng.
(Giăng
Câu, Tô Thanh Tùng)
Bản nhạc này có lời lẽ mộc mạc dễ thương đã
trở thành phổ thông vì nó nói lên đúng tâm trạng của mấy anh chồng trẻ ham mê
câu cá đôi khi còn hơn vợ. Ban đêm ban hôm mà không chịu ở nhà đắp mền làm bằng
da người thơm tho và ngủ cho sướng thân lại nghe theo lời rủ rê của mấy thằng
bạn câu mắc dịch lội mưa lội gió chống ghe đi câu cá tanh rình.
Nhưng bạn có mê câu cũng chỉ mê vừa vừa có
giới hạn thôi chứ mê quá thì bị lãnh hậu quả không tốt đó nhen.
Một
anh chàng mê câu cá nọ cứ cuối tuần là lái xe đi câu, bất kể thời tiết tốt xấu
ra sao. Khuya nọ anh dậy lái xe đi, không ngờ tới chỗ mướn thuyền câu, trời mưa
bão nên chủ thuyền tuân theo qui luật, không chịu cho mướn thuyền. Anh chồng mê
câu thất vọng trở về nhà nhè nhẹ thay quần áo trong bóng tối rồi leo lên giường
nằm bên vợ. Thấy vợ hơi cục cựa, anh chồng phân trần,”Không ngờ trời xấu quá em
à.” Vợ còn tơ lơ mơ, tưởng thằng kép mới đi washroom xong trở vô, nên lè nhè
đáp,”Vậy mà thằng chồng mắc dịch của em vẫn cứ đi câu, thế có ngu không!”
Ðó là chuyện mê cá hơn vợ. Nhưng cũng có
những anh chồng dối vợ viện lý do đi câu cá (không chân) để đi câu cá (chân
dài).
Chiều Thứ Sáu, một anh
chồng từ sở làm gọi điện thoại về cho vợ,”Em à, ông chủ vừa rủ anh đi câu xa,
sẵn bàn chuyện làm ăn của sở luôn, nhất là chuyện tăng lương của anh. Vậy em
lấy sẵn đồ đạc cho anh để nửa tiếng nữa anh tạt qua nhà lấy rồi phải đi ngay.
Em nhớ lấy cho anh bộ pajamas bằng lụa xanh nữa nhé.”Cô vợ nghe lời dặn của
chồng có vẻ kỳ kỳ/tanh tanh/khó ngửi/đáng nghi ngờ (tiếng Mỹ nó gọi là
“fishy”), nhưng vẫn làm đúng theo lời dặn. Chiều Chủ Nhật, anh chồng về nhà. Vợ
hỏi có câu được nhiều cá không? Chồng đáp,”Ồ, anh câu được nhiều lắm. Cá vừa to
vừa dài, xếp của anh cũng phải nể tài câu cá của anh. À, nhưng sao em không lấy
theo bộ pajamas cho anh?” Vợ đáp,”Em có lấy theo cho anh đó chứ! Em bỏ nó trong
thùng đồ câu mà!” Hóa ra “thằng chả” có đi câu thiệt đâu mà mở hộp đồ nghề ra.
Bể mánh!
Bên xứ sở của Hiệp Sĩ Mù Nghe Gió Kiếm, có
một ông chẳng mê câu cá mà cũng chẳng mê câu bồ; ông ta chỉ mê câu mỗi một món:
quần lót phụ nữ. Chắc ông ta lại là một nhà sưu tầm hay là một nhà nghiên cứu
đang miệt mài dốc công cho một dự án sưu khảo nào đó.
Theo tin báo Mainichi Shimbun ngày 01 tháng Mười,
2008, ông Akira Hino, 51 tuổi, đã dùng cần câu cá dài ba thước đứng trên ban
công lầu hai của biu đinh mà câu quần lót phụ nữ được phơi ngoài trời của hàng
xóm. Ông Hino bị cảnh sát bắt quả tang mấy ngày trước đó khi ông ta đang câu
con thứ ba của “chủng loại cá bằng vải mỏng có hình tam giác”. Khi cảnh sát
khám nhà ông Hino, họ đã khám phá ra một đống tang vật là quần lót phụ nữ. Ðể
lập biên bản, họ cẩn thận đếm được tổng cộng hơn năm trăm cái. Cũng cần nói
thêm, đây chỉ là tang vật bị tịch thu tại chỗ, còn số lượng đã được tẩu tán là
bao nhiêu thì có trời mà biết! Biết đâu ông đã lựa những cái còn mới, những cái
không có dấu vết của lưỡi câu làm rách, những cái hàng hiệu Victoria’s Secret,
những cái vừa đúng kích thước, đúng cỡ của một ai đó mà ông muốn tặng. Hay có
khi ông đem bỏ mối cho chợ trời. Bị chất vấn, “ngư phủ” độc đáo này khai rằng
ông ta đã bắt đầu câu xì líp kể từ năm ông 18 tuổi. Như vậy là trong vòng ba
mươi ba năm, ông câu được ít nhất là năm trăm (không biết gọi nó là cái hay con
đây). May quá loại cá này để lâu không ươn thúi, nếu không ông phải làm mắm hay
nước mắm.
Có một anh chàng “blogger” tên Charlie
Storrar ở Ðài Bắc
đã phịa ra một cuộc phỏng vấn dí dỏm và thú vị dành cho ông Akiro Hino
này. Nếu bạn tò mò muốn biết thêm chi tiết, bạn hãy vào liên kết:
http://charlogy.blogspot.com/2009/01/akira-hino-portrait-of-underwear-angler.html
Trở lại với chuyện câu cá thiệt, quê mình
có sông ngòi chằng chịt, ruộng đồng bát ngát, cá nổi như bánh canh, ai câu cũng
có cá, dễ ợt, người mù vẫn câu được.
“Ở
Rộc Lá này, cá tôm quá nhiều so với mấy nơi khác trong ấp. Từ tháng mười đến
tháng giêng, cá lội từng bầy trở về sông Cái, suốt ngày suốt đêm không ngừng.
Ban ngày, cá đi đớp bọt, trắng bờ rạch. Ban đêm thức giấc vào bất cứ lúc nào,
ta cũng nghe cá lóc táp mồi, cá trê chép miệng kế bên nhà. Nguồn lợi to tát vô
cùng!”
Về kinh nghiệm hiểu biết về cá, ông tả:
“Vào
đầu mùa, cá thường ăn mồi khi nước lớn. Giữa mùa, cá ăn lúc chạng vạng, lúc
trăng sửa soạn mọc. Hừng sáng, chừng đâm mây ngang, cá trở lại ăn một lần chót.
Khó nhứt là chọn nơi để giăng câu. Cá sợ ngọn nước ngoài biển chảy tràn vào
sông. Gặp nước mặn, cá hết nhớt ngoài da, con mắt xốn xang, nhưng nơi nước quá
ngọt lại ít có cá vì cá chưa đi tới. Cá tập trung nơi lằn ranh nước lờ lợ và
nước ngọt. Tại lằn ranh đó, nên biết chọn từng điểm nhỏ. Rạch nào lắm ghe xuồng
qua lại, cá ăn ở sát bờ. Rạch nào im lặng, cá lội ngay giữa dòng. Trước khi
giăng cá trê, phải quậy cho nước đục. Mỗi chỗ cá chỉ ăn một lần. Vì nó đi lưu
động, mình nên khéo dời chỗ... Gió bấc thổi ròng rã, cá lần lần về sông Cái.
Nếu bỗng nhiên trời trở mực, chuyển mưa, cá lui trở lại rừng và không ăn mồi.
Những ngày ấy, đi giăng câu cũng hoài công.”
Giải thích sự kiện người mù vẫn câu hay như
người không mù, Sơn Nam cho rằng đi giăng câu thường vào ban đêm trời tối, cá
lại ở dưới nước, thế thì sáng mắt hay mù cũng không khác gì nhau.
Câu cá ở quê ta thật đơn giản chứ không nhiêu khê như
ở Bắc Mỹ với quá nhiều qui luật rườm rà và gắt gao. Nội cái việc đọc qua hết
những qui luật này cũng đã đủ làm cho người muốn câu cá hoa hai con mắt, lùng
bùng hai cái lỗ tai mà chưa bảo đảm hiểu hết và nhớ hết. Ác một cái nữa là
những qui luật này lại thay đổi hằng năm cho thích ứng với tình hình mới và mỗi
vùng mỗi khác.
Cá được chia làm hai loại: loại thường và loại quí. Loại thường như Perch, Crappie, Sunfish, Whitefish, Catfish, Sucker, Carp (kiễu như cá sặc, rô, trê, chép của ta) thì được câu quanh năm nhưng có giới hạn số lượng tối đa mỗi ngày. Loại cá quí là loại cá dân câu thể thao ưa thích (game fish) như Bass, Pickerel, Northern Pike, Lake Trout, Muskellunge thì chỉ được phép câu theo mùa. Mùa lạnh từ tháng Giêng tới tháng Ba. Mùa câu chính ở Ontario thường mở vào cuối tháng Tư hoặc đầu tháng Năm cho tới tháng Chín hoặc tháng Mười tùy theo vùng và tùy theo loại cá. Số lượng giới hạn tối đa cho cá quí mỗi ngày rất ít, nhưng cũng còn tùy là loại nào và phải đạt đủ kích thước tối thiểu.
Cá được chia làm hai loại: loại thường và loại quí. Loại thường như Perch, Crappie, Sunfish, Whitefish, Catfish, Sucker, Carp (kiễu như cá sặc, rô, trê, chép của ta) thì được câu quanh năm nhưng có giới hạn số lượng tối đa mỗi ngày. Loại cá quí là loại cá dân câu thể thao ưa thích (game fish) như Bass, Pickerel, Northern Pike, Lake Trout, Muskellunge thì chỉ được phép câu theo mùa. Mùa lạnh từ tháng Giêng tới tháng Ba. Mùa câu chính ở Ontario thường mở vào cuối tháng Tư hoặc đầu tháng Năm cho tới tháng Chín hoặc tháng Mười tùy theo vùng và tùy theo loại cá. Số lượng giới hạn tối đa cho cá quí mỗi ngày rất ít, nhưng cũng còn tùy là loại nào và phải đạt đủ kích thước tối thiểu.
Nếu câu cá mà vi phạm qui luật, người vi
phạm có thể bị phạt tiền lên đến $25,000. Ta chớ có dại dột mà vi phạm. Mùa
đông vừa qua, một ông người Cà gốc Hoa đi câu trên hồ Simcoe bị cảnh sát của Bộ
Tài Nguyên Thiên Nhiên bắt và lập biên bản giải tòa vì ông người Cà gốc Hoa này
câu 67 con cá perch trong khi giới hạn tối đa là 50 con/một ngày thôi. Tòa phạt
ông ta $1,000.00.
Câu cá ở Bắc Mỹ được xem là một môn thể
thao lành mạnh nghiêm chỉnh. Các hội những người câu cá luôn luôn khuyên hội
viên nên thả cá trở xuống ao hồ, nên đối xử tử tế với cá và tôn trọng môi sinh.
Nên dùng đồ câu không có chất chì để tránh
sự nhiễm độc cho các loài điểu cầm săn cá dưới nước như vịt, ngỗng, thiên nga
và rộc, loại vịt lặn (loon). Nếu có vứt các thứ đồ nghề có chất chì thì cũng
nên vứt vào thùng rác trên bờ chứ đừng vứt xuống nước.
Ðừng giật cá quá mạnh khiến cá có thể bị
toạc miệng, giở cần lên chẳng thấy cá đâu mà chỉ có mỗi cái môi cá.
Khi gỡ cá, đừng vì sợ nước nhớt của cá mà
túm cá bằng khăn lông hoặc găng tay nỉ vì nếu bạn làm như thế thì cá sẽ bị mất
chất nhớt bảo vệ cơ thể của nó. Cũng tránh đừng móc ngón tay vào mang cá hoặc
bóp cá quá chặt. Và nhớ phải gỡ nhanh và thả cá xuống nước nhanh.
Cá trên cạn lâu sẽ ngộp thở. Cá vùng vẫy
nhiều sẽ bị thương tích. Nếu cá nuốt lưỡi câu quá sâu khó lấy ra thì bạn hãy
cắt giây câu và thả cá ngay. Ðừng vì tiếc một lưỡi câu mà làm cá chết. Nếu vì
cớ gì mà cá đã bị chảy máu và bị thương, tốt hơn bạn nên giữ lại mang về nhà
chứ đừng vứt lại xuống nước.
Nên nhớ: Ðừng làm những điều (tổn hại) gì
cho cá nếu mình không muốn người khác làm những điều (tổn hại) đó với mình.
(Quốc văn giáo khoa thư chắc) Cưng cá quá như vầy thôi thà bắt chước Khương Tử
Nha câu cá mà không móc lưỡi câu cho rồi!
Môn thể thao này coi bộ cũng hơi tốn bộn
tiền đó vì nếu chia số tiền đó ra thì bổ đồng mỗi người câu tốn hơn $1,500.00.
Nhưng đã là dân câu thứ thiệt thì họ không ngại tốn tiền trang bị đồ nghề ngon
lành nhứt từ đầu đến chân. Trên đầu có cái nón hiệu Tilley Endurables dắt thêm
dăm ba cái lưỡi câu và một cọng lông gà rừng hay lông chim gì cũng được, áo
chemise carreaux, áo khỉ khaki túi trong túi ngoài, quần có quay chéo qua vai,
giày bằng cao su ống cao để lội nước. Hộp đồ nghề nhiều ngăn đựng mồi giả, lưỡi
câu đủ cỡ đủ loại, giây cước, chì, kềm mỏ dài, dao, cân, thước đo cá, phao,
v.v. Ngoài ra còn có ghế xếp, giỏ đựng cá, giỏ đựng mồi sống, v.v. Tôi đã từng
thấy có những con cá mà thằng cha câu người Ðiên (Ca na điên) dùng để làm mồi
còn bự hơn là con cá sunfish (giống cá rô) tôi mới vừa câu được kéo lên. Tôi
nghĩ hay là cha nội nầy mua mồi bự để phòng hờ trường hợp câu không được cá quí
nào thì đem cá mồi về cho vợ kho tiêu ăn cũng đỡ. Có lý lắm à.
Anh Tèo nọ vác cần đi câu cả buổi, xui quá
câu chẳng được con cá nào. Sợ vợ chê, anh ta ghé qua người bán cá quen trong chợ
để mua một ít cá trê mang về. Anh nói,”Chị Tư ơi! Lấy cho tôi hai con cá trê
nầy đi.” Chị Tư bán cá làm như không nghe, tỉnh bơ bắt hai con lươn lớn bỏ lên
cân. Anh ta phản đối,”Tôi nói cá trê mà sao chị cân lươn?” Chị Tư bán cá lanh
lẻo nói,”Anh đi câu chẳng có con cá nào nên muốn mua vài con đem về khoe với
chị phải không? Hồi nảy chị Tèo có ghé đây dặn tôi là nếu anh có hỏi mua cá thì
bán lươn vì chị muốn đổi món ăn chiều nay đó mà!”
Một cặp vợ chồng trẻ nọ đi nghỉ hè ở một
cottage ven hồ. Người chồng mê câu cá, sáng sớm đã lấy xuồng bơi xa xa khỏi bờ
để thả câu. Người vợ thì thích đọc tiểu thuyết. Một hôm người chồng trở vô nhà
ăn trưa rồi đánh một giấc. Không muốn quấy rầy chồng, người vợ nảy ra ý định
thử chèo xuồng một mình chơi. Chèo ra xa bờ một chút, người vợ ngừng chèo rồi
giở sách ra đọc. Tình cờ có một cảnh sát bảo tồn động vật hoang dã chạy xuồng
đến gần hỏi:
”Bà đang làm gì ở đây?” Người phụ nữ chưng
hửng trước câu hỏi hơi thừa này nhưng vẫn bình thản đáp:
”Tôi đang đọc sách.” Viên cảnh sát nói:
”Ðây là một khu vực cấm câu.”
“Nhưng tôi đâu có câu cá; tôi đọc sách mà.”
“Nhưng trên xuồng bà có đầy đủ dụng cụ chứng
tỏ là bà có ý định câu cá ở đây. Bà không đi tôi sẽ biên giấy phạt.”
"Nếu ông biên giấy phạt, tôi sẽ thưa
ông về tội xách nhiễu tình dục tôi.”
“Nhưng tôi đã đụng tới thân thể bà đâu?”
“Chưa đụng nhưng ông đã có đầy đủ dụng cụ
để làm chuyện đó!”
Bài học luân lý: Ðàn bà đọc sách nhiều khôn
lanh lắm!
Nếu nói là phụ nữ không câu cá vì không có
cần câu thì sai; họ chỉ việc vào tiệm Canadian Tire hoặc Wal-Mart mua cần câu
thiếu giống gì!
“Ông có thể giúp tôi lượng giá bộ đồ câu
này được không?” Ông ta đáp:
“Tôi tuy mù nhưng có thể xác định được bộ
đồ câu thuộc loại tốt hay không. Cô chỉ cần bỏ nó rơi mạnh lên mặt quầy này
đây.” Cô gái làm theo. Ông bán hàng mù nói:
“Ðây là cần câu Zebco trục quay 202, giây
câu loại 10 cân (lbs.). Bộ này vừa sức trung bình cho một người mới tập sự câu.
Giá của nó là $20.00.” Cô gái ngạc nhiên hết sức và mừng rỡ đáp:
“Vậy tôi lấy cái nầy.” Nói xong, chợt cô
không kềm giữ được hơi trong bụng nên làm một tiếng “bộp” không lớn lắm; cô hi
vọng là ông bán hàng không nghe thấy. Ông mù bán hàng không nói gì, lo bấm máy
tính tiền, xong bảo:
“Tất cả là 26 đô.”
Cô gái phản đối, “Nhưng lúc nãy ông mới nói
là 20 đô mà?”
“Cần câu 20 đô, còi kêu vịt trời 4 đô, mồi
giả mùi cá trê chết 2 đô, tổng cộng 26 đô.”
Dân đi câu về thường hay phóng đại thành
tích. Cá mang về chình ình ra đó thì không thể bắt người ta ngó qua kính lúp,
đành phóng đại mấy con cá sẩy, giống như là các anh tán đào có thói quen tăng
chức tước và bằng cấp. Con cá dài tám inch thì nói mười mấy inch, con bằng cổ
tay thì nói bằng bắp chuối, con kéo phăng phăng thì bảo kéo muốn gãy cần câu
luôn! Mà sẩy cá thì nuối tiếc phải biết; nó cứ tiếc hùi hụi, mỗi lần nghĩ tới
là lòng dạ lại xốn xang như chấu cắn!
Hai cha con đi câu về; thằng con mười tuổi
vào nhà mếu máo khóc với mẹ. “Sao thế?”, mẹ hỏi; thằng nhóc đáp,”Ba câu được
một con cá lớn lắm. Ba hì hục phấn đấu với nó một lúc lâu nhưng khi lôi được nó
sát tới bờ rồi thì con cá vùng một cái mạnh rồi sẩy mất.” Người mẹ nghe vậy an ủi,”Thôi
con đừng tiếc con cá mà buồn khóc làm gì. Cứ vui cười lên chứ.” Thằng con càng
khóc to lên,”Thì tại con cười đó cho nên Ba mới xáng cho con một bạt tai. Hu
hu...”
Ðấy, đi câu cả buổi
cả ngày về chẳng có con nào mà còn có chuyện chẳng vui nữa. Nếu ở cái xứ nầy mà
bạn tính đi câu cho có lời thì thà bạn làm ơn giùm tôi ra chợ Tàu mua cá tươi
về ăn cho chắc ăn vì đi câu ở đây quả là tốn kém dễ sợ. Cứ cộng chung tất cả
phí tổn chi tiêu cho một chuyến đi câu sẽ biết ngay. Giá xăng mắc, “càng đi xa
ta càng tốn hao”. Ði câu mà không cẩn thận có khi bị cá lôi mất cần câu luôn,
mất cả chì lẫn chài. Hay gặp hôm thời tiết xấu, đi không về không là cái chắc,
hoặc nếu có cá cũng chẳng bõ công.
Hai
người bạn nọ lái xe cả trăm cây số đi câu vào một ngày cuối tuần; tổng cộng
tiền xăng nhớt, tiền mua mồi, mướn ghe cũng gần một trăm đô mà hai người chỉ
câu được có mỗi một con cá bass nặng chừng 4 pounds. Anh A tính nhẫm,”Coi như
mình mua con cá này với giá 25 đồng một pound.” Anh B, chắc dốt toán nhứt lớp
giống tôi, đáp,”May quá mình không câu con nặng hơn!”
Các cha nội bạn câu với nhau
họp nhau lại tán dóc trong bàn tiệc và thử tìm những sự khác biệt giữa đi câu
cá và “have sex”. Bảng liệt kê như sau:
-
Cần câu không cần phải cứng ngắc.
-
Vừa ngủ gục vừa câu cũng được.
-
Câu cả ngày cả đêm vẫn được.
-
Cá đẹp, cá quí bạn câu được mang về khoe bà xã thoải mái.
-
Ðọc tạp chí chuyên mục về câu cá thoải mái, không cần phải lén
lút.
-
Câu cá giữa thanh thiên bạch nhật, có đông người cùng câu một lúc
cũng không sao.
-
Cá nào cũng câu được, không phân biệt tuổi tác, phái tính, chủng
loại, miễn là đúng mùa cho phép câu.
-
Mỗi lần câu là mỗi con cá khác nhau.
-
Không sợ cá truyền bệnh nguy hại.
-
Có khi một lần kéo cần lên được hai, ba con.
-
Cá không bao giờ đánh nhau.
-
Cá cũng không bao giờ càm ràm, không bao giờ thắc mắc sao nhanh
thế.
-
Mười Ðiều Răn chẳng đá động gì tới chuyện câu cá.
-
Nếu có người lén chụp hình bạn với cá bạn câu được, bạn khỏi phải
lo ảnh bị tung lên Internet để tống tiền hay tống tình.
-
Không ai bảo là nếu bạn câu cá một mình, bạn sẽ bị mù mắt.
-
Câu cá không cần uống Viagra.
Thư của một dân câu gửi cho Abby để vấn kế:
“Abby thân mến,
Có thể nói, tôi là một người được trời ưu đãi có đầy đủ mọi thứ
đáng ao ước trên đời: vợ đẹp con khôn, gia đình hạnh phúc, học hành tử tế, công
ăn việc làm vừa ý với lợi tức cao và hưu bổng hậu hĩ khiến cho tôi có thể thoải
mái theo đuổi thú đam mê câu cá như hiện nay.
Tôi có riêng một chiếc tàu câu nho nhỏ và muốn cùng vợ chia sẻ thú
giải trí tao nhã này nhưng vợ tôi lại không thể nào thích đi câu. Thế rồi một
ngày trong tiệm bán đồ nghề câu cá, tôi quen với Sam. Qua vài lần nói chuyện
hạp tính ý nhau, chúng tôi trở thành đôi bạn câu không rời nhau.
Mong đợi Abby cho tôi một lời khuyên thành thực.
Một người thích câu đau khổ.
Tái bút: Tôi xin gởi kèm tấm ảnh Sam đang khoe hai con cá bass mà
chúng tôi câu được.”
Thư trả lời của Abby
“Ông câu đau khổ thân mến,
Ông còn chần chừ gì nữa chứ, bảo vợ ông: một là theo ông đi câu,
hai là ông cứ tiếp tục đi câu với Sam!
Abby.”
Cũng chỉ là chuyện bịa thôi,
chứ Abby nào lại xúi dại độc giả như thế.
Câu cá cũng có nhiều hạng và
nhiều loại, nhiều kiểu. Ðối với giới thượng lưu trí thức lịch lãm, câu cá là
một nghệ thuật thuần túy, một môn thể thao đòi hỏi tài nghệ. Họ dùng sự đi câu
cá để tĩnh dưỡng tinh thần, để gần gũi với thiên nhiên, để có dịp ngược dòng
lịch sử sống lại như tiền nhân hay cha ông.
Herbert Hoover (1874-1964), vị
tổng thống thứ 31 của Hoa Kỳ (nhiệm kỳ 1929-1933) nói,”Fishing is much more than fish. It is the great occasion when we may
return to the fine simplicity of our forefathers.” (Câu cá không nhất thiết vì
cá mà còn nhiều hơn thế. Ðó là cơ hội tốt để chúng ta có thể trở về với cách
sống đơn giản thuần khiết của cha ông.) Nhà văn Mỹ John Ernst Steinbeck, Jr. (1902-1968, tác giả của The Grapes of Wrath và Of Mice and Men, người từng đoạt giải
Pulitzer Prize và Nobel Văn Học) từng nói mọi người Mỹ đều là những người có
bản tính thích câu cá từ lúc mới sinh ra đời. Nếu ai đó bảo rằng họ không thích
câu cá thì điều đó cũng như thể là họ chối bỏ tình mẹ thương con hoặc chán ghét
ánh trăng. Cựu tổng thống Jimmy Carter
thì nói những biến động công luận lớn nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của ông
cũng không đáng nhớ hay quan trọng bằng những kỷ niệm ông đi câu cá với thân
phụ ông.
Những người cha thường hay dắt
con trai đi câu, vừa kết chặt tình cha con thắm thiết vừa truyền đạt kinh
nghiệm câu cá cho con.
Sáng chủ nhật, Tommy đến nhà
thờ đi học lớp giáo lý hơi trễ, mặt đượm nét u sầu. Thầy hỏi,”Chuyện gì vậy
con?” Tommy đáp,”Sáng nay con muốn theo cha con đi câu, nhưng cha con bảo con
phải đi học.” Thầy nói, “Ồ con biết vâng lời cha con như vậy thì tốt quá. Nhưng
cha con có giải thích cho con biết lý do tại sao không?” Tommy đáp, “Dạ có. Cha
con nói cha con chỉ đủ mồi cho một người câu thôi.”
Tôi cũng đã từng một lần buồn
như Tommy. Ngày đó cha tôi bảo tôi,”Con phụ lau dọn xe đi rồi ngày mai Ba cho
con đi theo đi câu. Tôi mừng rỡ lau rửa chiếc xe Fiat của cha tôi cho bóng.
Sáng hôm sau tôi hăm hở dậy sớm chuẩn bị sẵn sàng cho một chuyến đi câu xa. Ðám
bạn câu của Ba tôi đến dư ra một người, xe không đủ chỗ chở hết. Cha kéo tôi ra
nói nhỏ,”Thôi con chịu khó ở nhà bữa nay nha con. Bữa khác Ba chở đi.” Bữa khác
ấy không xảy ra. Sau đó tôi không còn có dịp nào đi câu chung với cha tôi nữa.
Cha con đi câu cá chung, đôi khi câu được
cá hay không còn là chuyện hên xui chứ chưa hẳn hoàn toàn do kinh nghiệm. Con
có “lỡ” câu được nhiều cá hơn cha thì hãy coi đó là “phước” trong gia đình chứ
người cha đừng vì tự ái vặt mà kiếm chuyện rầy rà thằng nhỏ tội nghiệp. Quãng
đời trẻ thơ của tôi trãi qua không có cha tôi bên cạnh; đến tuổi vị thành niên
thì tôi lại thích đi câu với bạn cùng trang lứa vui hơn, được tự do giở nhiều
trò vui phụ trội khác như tắm sông, bẻ mía, hái bần. Nhưng cha tôi có công tìm
đốn những cây trúc vàng làm cần câu và mua cho tôi lưỡi câu của Pháp bọc giấy
pelure đựng trong những chiếc hộp bằng giấy bồi xinh xinh.
Quê ta may mắn có loài cây tre
trúc mọc khắp nơi; mà cần câu bằng cây trúc là loại cần câu lý tưởng với độ bền
và độ dẻo có sức đàn hồi rất thích hợp cho việc câu cá. Cần câu và mồi câu coi
như có sẵn không cần phải mua; tiền mua nhợ câu và lưỡi câu không đắt, trẻ con
nhà nghèo ở quê ta vẫn có tiền sắm để có đủ đồ nghề đi câu với chúng bạn.
Việc bắt cá để làm thực phẩm ăn
có từ thời con người ăn lông ở lỗ, ban đầu có thể dùng tay không bắt cá như
gấu. Tiến hóa dần dần, con người dùng gậy đập cá, dùng cây gỗ vót nhọn, dùng
chĩa ba đâm cá, sau đó mới chế ra lưỡi câu bằng gỗ. Theo tài liệu của Wikipedia
thì cuối thế kỷ thứ hai ở La Mã, học giả Claudius Aelianus (175-235) có mô tả việc
làm mồi giả của người Macedonian trong bộ sách khảo cứu sinh vật học gồm 17 quyển
De Natura Animalium (Ðặc tính của sinh
vật). Người Trung Hoa biết chế ra ống nhợ câu cá từ thế kỷ thứ ba trước Công
Nguyên. Tuy nhiên việc dùng ống nhợ câu chỉ xuất hiện lần đầu tiên trong tác
phẩm văn học Trung Hoa vào thế kỷ thứ ba sau Công Nguyên. Một bức tranh cổ vẽ
năm 1195 cho thấy hình ảnh một ông câu ngồi trên ghe quăng giây câu cá. Người
Nhật và người Anh cũng biết dùng sợi vải lụa màu để quấn lưỡi câu và làm thành
mồi giả từ thế kỷ thứ mười lăm, mười sáu. Tại Hoa Kỳ, thú câu cá cổ truyền dùng
cần câu bằng tre và mồi tự tạo được xem là một môn thể thao thanh lịch quí
phái. Chính nơi xứ sở này, môn thể thao câu cá đã được kỹ nghệ hóa và trở thành
phổ biến đại chúng, một phần nhờ các tác phẩm văn chương, như truyện A River
Runs Through It của Norman Maclean phát hành tháng Năm 1976 và được Robert
Redford quay thành phim năm 1992 với Prad Pitt đóng vai chính. Ngoài ra, các
“show” truyền hình cũng triệt để khai thác phát hình nhiều chương trình về câu
cá.
Đi câu dĩ nhiên là thú vị. Hồi còn tuổi
thiếu niên chưa bị con ma tình yêu lôi cuốn, tôi rất khoái đi câu. Tôi câu
mương, câu ao và câu ruộng. Sau nầy ở ngoài quê hương tôi có dịp câu sông, câu
hồ, câu biển.
Tôi bắt đầu đi câu từ năm bảy, tám tuổi,
quanh quẩn ở mấy cái mương trong khu vườn nhà ông bà ngoại. Khi thủy triều lên,
cá từ sông theo nước lớn vào mương để kiếm mồi ăn, cá lòng tong, cá chốt, cá
trèn, cá ngác, cá trê, cá bống mú, nhiều nhứt là cá bống dừa, chắc vì chúng
thích ở trong các bẹ lá dừa nước.
Đồ nghề thật đơn giản, chỉ là một cái cần
câu trúc dài khoảng hai thước, giây câu là một khúc chỉ may áo cũng dài khoảng
một thước rưỡi, mồi là mấy con trùn đất sẵn có đầy vườn, lấy cuốc bổ vài cái
xuống đất là có. Khi chưa có lưỡi câu, tôi dùng cọng lá dừa để luồn sợi chỉ qua
thân con trùn, xong cột lại thành một cục tròn. Vậy mà tôi cũng câu được khối
cá óc mít, cá lòng tong, cá bống dừa.
Khi lớn lên thêm vài tuổi nữa, tôi trở
thành con người ác độc hơn: tôi xài lưỡi câu, là “hook”, nhưng “hooker” lại
không có nghĩa là người xài lưỡi câu như tôi nghĩ! Tôi phải chạy theo đà văn
minh của dân miệt vườn, nếu không, những con cá lóc, cá rô, cá trê vàng mập mạp
sẽ tiếp tục đi vào mâm cơm của người khác. Phen nầy tôi đã dùng giây cước, tức
giây câu bằng ny lông, lưỡi câu ba cỡ lớn nhỏ khác nhau đựng vô một hộp thiếc
nguyên là hộp kẹo bạc hà. Vấn đề mồi cũng trở thành nhiêu khê hơn, vì còn tùy
loại cá muốn câu.
Cá trê có râu mép giống mèo nên bị gọi là
cá mèo trong Anh ngữ, có ngạnh cứng và bén nhọn hai bên mang vừa dùng như hai
cái nạng chống đi (nên cũng được gọi là walking fish) vừa là một thứ vũ khí lợi
hại đáng gờm. Thò tay bắt nó không khéo nó vung gươm đâm cho một nhát. Vết
thương do ngạnh cá trê đâm có thể làm độc sưng nhức nhối đau đớn vô cùng. Nếu
mỗi lần bị cá trê đâm hoặc chém mà được gắn một chiến thương bội tinh thì e
rằng ngực áo của tôi cũng không có đủ chỗ để mang huy chương cho hết. Chiến
thương bội tinh trong Anh ngữ là Purple Heart, trái tim màu tím bầm, bị thương,
dù là do cá trê chém, đúng là bầm gan tím ruột! Đầu cá trê có sọ rất cứng như
áo giáp cho nên muốn làm thịt cá trê, người ta phải đập đầu nó bằng cán dao,
nếu không muốn bị nó chém trong lúc làm cá. Cá trê mắt nhỏ cho nên phải lệ
thuộc vào các giác quan khác là nếm, ngửi, và nghe. Râu và da cá trê có nhiều
đầu giây thần kinh vị giác. Nhiều loại cá trê thụ động ban ngày, ban đêm mới
xông xáo kiếm ăn. Chúng thích sống trong hang hốc, bộng cây, bờ lõm và những
chỗ ẩn nấp khác dưới nước. Thiếu điều kiện nầy để xây tổ ấm gia đình, mức sinh
sản của chúng sẽ giảm đi rất nhiều. Vợ chồng trê thay phiên nhau ấm trứng cho
đến khi trứng nở.
Gần đây, những nhà nuôi cá bông lau Hoa Kỳ
kêu rêu quá xá vì cá bông lau nhập cảng từ Việt Nam vào thị trường Mỹ với giá
rẻ mạt, các farm nuôi cá địa phương của Mỹ cạnh tranh không lại. Mức xuất cảng
cá bông lau của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã gia tăng gấp ba mươi lần trong ba năm
vừa qua và hiện giờ chiếm vào khoảng một phần tư thị trường tiêu thụ. Để đả
kích, các nhà nông trại nuôi cá của Hoa Kỳ hô hoán lên rằng cá bông lau của
Việt Nam được nuôi bằng thực phẩm xấu bị nhiễm độc không qua sự chế tài và kiểm
soát tiêu chuẩn của giới thẩm quyền chuyên môn, không chịu những cuộc kiểm tra
chất lượng nghiêm nhặt giống như cá bông lau nuôi ở Mississippi, Alabama,
Arkansas và những tiểu bang khác ở miền nam Hoa Kỳ.
Để bảo vệ những nhà nuôi cá bông lau Mỹ,
Quốc Hội mới đây đã thông qua đạo luật nói rằng chỉ có giống catfish họ
Ictalariidae - loại được nuôi ở các ao hồ Hoa Kỳ - mới có thể được gọi một cách
đúng đắn là "catfish." Loại cá Việt Nam được chở tới các thị trường
Hoa Kỳ là thuộc họ Pangasiidae.
Vì sớ thịt cá trê dẻ chắc, mùi vị thơm ngon
cho nên cá trê đã được thương mại và thị trường hóa. Ở Hoa Kỳ có nhiều nông
trại chăn nuôi cá trê trong các tiểu bang miền Nam. Ngoài các loại cá trê thông
thường ở Hoa kỳ và ở Việt Nam, những nơi khác trên thế giới có vài loại cá trê
rất đặc biệt. Chẳng hạn như loại cá trê ký sinh nhỏ xíu ơ Nam Mỹ gọi là
candiru, tên khoa học là Vandellis cirrhosa, nghe nói có thể chui vào niếu đạo
của con người khi họ lội xuống nước. Còn ở Phi Châu có một loại cá trê thân
mình có điện, tên khoa học là Malapterurus electricus có thể phát ra một luồng
điện đến 350 volts đủ để giật bắn người. Với cá trê thuộc chủng loại Clarius
babrachus ở Á Châu, cơ thể nó có một bộ phận giống như lá phổi để thở khí trời,
giúp cho chúng có thể sống trên cạn và "đi" di cư từ vùng có nước nầy
sang vùng có nước khác. Ban đầu chúng được đưa vào nước Mỹ như một món sưu tầm
lạ nuôi chơi, nhưng lần hồi chúng sinh sôi nẩy nở và lấn át luôn nhiều giống cá
"dân địa phương" để trở thành giống đa số ở vùng Nam tiểu bang
Florida. Loại cá trê wels ở Âu Châu, tên khoa học Silurus glanis là một trong
những loại cá nước ngọt lớn nhứt. Con lớn nhứt có thể dài đến bốn thước rưỡi và
nặng đến ba trăm kí lô gram. Dân câu phe ta mà câu được một con chắc là phải hú
cả xóm tới chia thịt quá!
Cá trê nướng chấm mắm gừng
Em ăn cẩn thận coi chừng mắc xương.
Em ăn cẩn thận coi chừng mắc xương.
Tình chưa! Một người chồng nông dân tay lấm
chân bùn, vợ mới sanh con so còn nằm ở cử; chàng nướng cá trê giầm với nước mắm
gừng, luộc thêm một mớ đọt rau lang cho vợ ăn, âu yếm dặn vợ ăn cẩn thận coi
chừng mắc xương. Thử tưởng tượng trong một mái nhà tranh vách đất có đôi vợ
chồng trẻ ngồi ăn bữa cơm chiều; tuy bữa cơm đạm bạc nhưng đầy đủ ý nghĩa. Gừng
cay ấm giàu dược chất tốt giúp cho sản phụ mau cứng cáp; đọt rau lang sinh
nhiều sữa cho con bú. Chồng chăm lo cho vợ. Một hạnh phúc mộc mạc và bình dị
biết bao!
Cá trê là món ăn bình dân quen thuộc trên
khắp thế giới và cá trê hiện diện khắp nơi trên quả địa cầu vì giống cá nầy có
bản năng sinh tồn rất mạnh có thể thích nghi với mọi hoàn cảnh môi trường khí
hậu. Chúng thuộc khoảng ba mươi nhóm "họ" và hai ngàn chủng loại khác
nhau và hầu hết sống ở vùng nước ngọt. Bán đại lục Nam Mỹ là nơi có nhiều chủng
loại cá trê khác nhau sinh sống nhất.
Có một lần tình cờ tôi khám phá ra một hang
ổ cá trê. Lúc đó nước ròng, mực nước thấp chưa đầy hai tấc. Tôi vô vườn hái
mận. Một chùm mận ngon rớt xuống nước sát bờ mương phía bên kia. Tôi tiếc nên
nhìn theo và định nhảy xuống vớt. Tôi chợt thấy một cái hang gần bên chùm mận
và có một con cá trê khá bự đang lấp ló nơi miệng hang. Tôi nhảy xuống chỗ đó,
con cá trê đã thụt vô hang, nhưng tôi bỗng nghe có tiếng quậy rầm rầm từ trong
đó phát ra. Tôi đoán rằng như vậy có nghĩa là trong hang đó có nhiều cá lắm.
Chiều hôm đó khi nước lớn, tôi xách cần ra chỗ đó câu. Quả nhiên tôi câu được
liên tiếp sáu, bảy con cá trê cùng lứa trong bằng cườm tay. Tôi mừng lắm, nghĩ
rằng phen nầy mình trúng mối.
Mấy lần câu sau ở nơi đó, tôi vẫn được
nhiều cá hoài. Tôi bèn khoe kể lại với các cậu và ông ngoại tôi. Một cậu nhảy
qua bờ bên kia quan sát. Bờ đó là bờ của một con đê rộng khoảng hai thước ngăn
ranh giới ruộng lúa của ông Hai Muôn hàng xóm với vườn đất của ngoại tôi. Trên
mặt con đê có cây cỏ mọc um tùm, chính giữa mặt đê ngay trên cái hang có lỗ
trũng xuống. Cậu tôi bẻ một nhánh cây thọc xuống lỗ trũng đó thì đụng nước
sình, có nghĩa là cái hang đó có bộng sâu từ mương vô tới giữa đê. Các cậu bàn
nhau và đồng ý cho rằng hang nầy có lẽ là lâu năm lắm rồi và cá rất nhiều. Họ
quyết định đào hang để tóm trọn ổ cá trê. Nói là làm. Họ lấy đất sét bít chặt
tất cả các miệng hang chánh, phụ ở gần đó cả hai bên ruộng và mương. Họ đào
ngay lỗ hổng trên mặt đê. Đê cao chỉ độ một thước, đất không khô, chỗ đó lại
hỗng, cho nên họ đào chừng nửa tiếng đồng hồ là đụng nước. Các cậu nghe tiếng
cá quậy đùng đùng. Mọi người vô cùng hứng khởi, nhứt là tôi. Sau đó các cậu
dùng đất sình trộn rơm đắp bờ chung quanh miệng hang chính, tát hết nước ra rồi
khai mở miệng hang, lùa cá ra ngoài và nắm đầu từng con bỏ vô thùng thiếc. Tóm
trọn ổ đó được hơn một trăm con mà chỉ có hai con cá trê vàng, còn bao nhiêu là
trê lét. Ông ngoại tôi thấy nhiều cá quá đâm nghi ngờ phán một câu làm tôi hết
hồn:" Hay là hang đó là một cái hòm mục đó!" Nghe ông ngoại nói vậy,
tôi cũng ớn, nhưng những món ăn bằng cá trê mà mẹ tôi nấu ngon quá làm sao tôi
bỏ qua cho được.
Câu cá rô chỉ hơi vất vả ở giai đoạn tìm
mồi. Mồi trứng kiến, cá rô khoái hơn hết thảy. Ồ kiến vàng trong vườn thiếu gì,
hầu như bất cứ cây nào cũng có. Cây nào càng sai quả càng có nhiều ổ kiến. Muốn
lấy trứng kiến vàng, tôi phải dùng một cái lồng cán dài có lót lưới vải mùng.
Tôi thọc cái lồng vào ổ kiến lắc lư phá cho cái ổ vỡ ra, kiến con và trứng rơi
vào lưới vải mùng, còn kiến vàng túa chạy tán loạn rơi lên người tôi thi nhau
cắn cong cả đít...nó và cả đít tôi nữa vì đau. Mặc kệ kiến cắn! Con gái nhéo
còn đau hơn. Tôi lo lấy mồi cho nhiều để còn ra ruộng câu vì chỉ ở ruộng và các
ao vũng gần bên mới có nhiều cá rô.
Đi câu ở Ontario, tôi gặp một loại cá
sunfish khá giống như cá rô ở quê nhà nhưng mình sunfish dẹp hơn, hai bên thân
có sọc đậm đen hơn và bụng màu cam cam.
Cá rô không mạnh, cũng không có hang ổ, tôi
không sợ nó giựt đứt nhợ hoặc biến mất, đôi khi tôi cứ nhẩn nha để cho nó mang
lưỡi câu bên mép lội qua lội lại chơi một lúc rồi mới chịu kéo lên bờ giống như
một con mèo vờn chuột. Tôi ngồi một chỗ câu cho đến chừng nào tôi cảm thấy
trong đám ruộng đó hết cá rô rồi, tôi mới dời qua đám ruộng khác. Khi nào cái
đục đã khá đầy cá hoặc mồi hết thì tôi về.
Trong bữa ăn thường ngày ở nhà quê thường
thấy món cá rô chiên giòn giầm nước mắm hoặc chiên với hành ta có bỏ đường gọi
là ngào hơi ngọt ngọt. Một món khác nữa là nấu với mắm sặc sống để làm thành
món mắm và rau. Chữ “và” được dùng trong câu nầy là một động từ có nghĩa
là lùa thức ăn vào miệng chứ không phải là một liên từ.
Cá sặc hay đi chung với cá rô như cá lia
thia với cá bãi trầu, như Tấm với Cám. Cá sặc là loại cá không thể câu vì miệng
chúng nhỏ xíu, chúng chỉ rỉa mồi chứ không táp hay hả họng cắn cho người ta
nhờ. Chúng là nỗi bực mình cho dân câu vì chúng chuyên môn phá mồi chẳng khác
nào một tay không biết uống rượu mà lại ngồi trong bàn nhậu có đồ nhắm ngon.
Thoạt nhìn khó mà phân biệt giữa cá rô và cá sặc vì chúng bằng cỡ nhau, màu
trên sống lưng cũng nâu nhạt giống nhau. Nhưng cá sặc thỉnh thoảng hay nghiêng
mình khiến cho người ta có thể nhận đúng ra chúng. Thân hình của chúng dẹp hơn
cá rô, hai bên lườn có đốm đen, hai vây dưới mang dài hơn. Cá rô thì có sọc rằn
như quân phục của thủy quân lục chiến, kỳ trên lưng rất cứng, vẩy cũng cứng hơn
vẩy cá sặc. Ổ đẻ của cá sặc rất dễ biết vì có một đám bọt bằng bàn tay xòe nổi
trên mặt nước.
Những năm đầu của thập niên 1950, dân
Saigon sống vùng Chợ Quán còn ở nhà sàn trên đầm lầy đầy bèo và lục bình. Gặp
mùa nước dâng lên, mực nước cách sàn nhà trong gang tấc, tôi đã từng ngồi trước
hàng hiên nhìn xuống nước trong và chăm chú theo dõi một đôi vợ chồng cá sặc
bướm nhả bọt làm ổ ngay dưới chân cột. Tôi lấy một cái rổ lớn rình rình vớt một
cái thật lẹ dưới đống bọt, xúc luôn hai cô cậu sặc vô rổ. Tôi bỏ chúng vô một
cái thau rồi đổ nước đầy cho chúng lội xem chơi đến chán rồi thả. Chúng là loại
cá hiền khô quá hóa khù khờ, để đâu nằm yên đó chớ chẳng chịu tìm cách thoát
thân. Chúng cũng chẳng có nhiều thịt như cá rô cho nên chỉ để làm mắm. Mắm sặc
Châu Đốc làm bằng cá tươi, thịt dẻ khắc, xé ra ăn sống với cơm nguội đủ ngon
rồi, đem nấu với thịt ba rọi xắt mỏng và cà tím để ăn với rau ghém bắp chuối
hột non lại còn ngon hơn.
Tôi là một tay cao thủ sát cá đó bạn (ai đi
câu mà chẳng nói mình giỏi!). Đã không câu thì thôi, chớ câu là có nhiều cá.
Tôi câu được nhiều cá chừng nào, tôi càng mê câu chừng đó. Những loại cá bị tôi
câu nhiều nhứt là cá rô, cá trê và cá lóc, sau đó mới tới cá bống, cá óc mít,
cá lòng tong và cá thòi lòi. Bống, ốc mít, lòng tong, thòi lòi là mấy loại cá ở
mương, rất dễ câu, là trò chơi của con nít, câu không cần lưỡi câu bằng kim
loại. Rô, trê và lóc câu được mới thích thú hơn, đòi hỏi tài nghệ cao hơn, nhứt
là lóc. Lóc đáng coi là "game fish", là "true fighter", vì
lối chọn mồi, rình mồi, quan sát mồi, theo dõi mồi, táp mồi, và lối kháng cự
dũng mãnh của nó khi biết mình đã bị dính lưỡi câu.
Mồi ưa thích nhứt của lóc là nhái hoặc cóc
con còn sống. Hồi nhỏ tôi đã từng đi bắt nhái bầu, nhái bù tọt, cóc con để làm
mồi câu cá lóc và để bán lại cho mấy ông câu khác. Chiều chạng vạng tối, cóc mẹ
cóc con từ các hang dưới gốc chuối hay hốc kẹt quanh nền nhà túa ra để ăn muỗi,
mối, kiếng có cánh. Mấy ông câu già ngại bắt cóc vì mắt kém khó thấy đường vào
lúc hoàng hôn. Tôi chọn những con vừa cỡ bằng ngón tay cái của người lớn hoặc
bằng ngón cẳng cái của tôi, một thằng nhỏ khoảng mười tuổi lúc bấy giờ. Nhái
thì khó bắt hơn cóc vì nhái nhanh nhẹn hơn cóc, lại chỉ ở những chỗ gần mé
nước, khi nghe thấy động tĩnh là chúng nhảy tỏm xuống nước bùn trốn mất. Do đó,
tôi thường đi bắt nhái vào giữa trưa nắng gắt. Trời nắng nước ruộng rất trong,
dù nhái có nhảy xuống nước, tôi vẫn có thể xác định vị trí của chúng một cách
dễ dàng và thò tay chụp đúng chóc.
Mỗi lần đi câu cá lóc, tôi xách một cái cần
và hai cái đục. Cái nhỏ đựng mồi, cái lớn đựng cá. Đục đan bằng tre, có nắp
đậy, có quai xách. Cần câu có hai loại: câu rê và câu nhấp. Cần câu rê nhỏ hơn,
ngắn hơn, dùng trong hiện trường mặt thoáng nhỏ hẹp như ao, mương, rạch. Khi
câu rê, người câu di chuyển chầm chậm trên bờ vừa rê rê con mồi trên mặt nước.
Cần câu nhấp nặng hơn, dài hơn, dùng cho hiện trường mặt thoáng rộng lớn như
ruộng lúa hay cánh đồng ngập nước. Cần câu nhấp làm bằng thân cây trúc có sức
oằn cong nhiều và dẻo dai, vì nặng và dài hơn cho nên đặc biệt có gắn một cái
bá cong cong ở đuôi cần để chống chịu vào một bên hông của người câu. Khi câu nhấp,
người câu nắm con mồi móc dính lưỡi câu quăng bổng ra thật xa rồi đứng yên một
chỗ và gật gật (nhấp) cần câu theo động tác lên xuống cho con mồi nhẩy nhẩy
trên mặt nước như thể một con nhái đang lội.
Cá lóc là loại cá rất hiếu động, hung hăng
và háu ăn. Vì thế chúng ít khi sống theo đàn, chỉ đi kiếm ăn riêng rẻ, mỗi cặp
có vùng hoạt động riêng. Vì những con mồi của cá lóc thường thường ở trên mặt
nước cho nên cá lóc thường xuyên lội sát mặt nước và nổi đầu lên rất dễ trông
thấy. Khi thấy một con nhái, một con cào cào, một con chuồn chuồn hay một con
bướm lảng vảng gần mặt nước hoặc đang đậu trên một nhánh lúa, cá lóc rình rình
tiến lại gần rồi vụt phóng mình lên táp thật lẹ trong nháy mắt. Do đó nơi nào
có cá lóc là người đi câu biết ngay, mù cũng biết mà điếc cũng biết, miễn là
đừng cả hai.
Sống ở Saigon hai chục năm, tôi có nhiều
dịp xuống các ghe chành, ghe bầu chợ cá từ Biển Hồ ở Nam Vang về đậu dọc theo
Bến Chương Dương gần Cầu Ông Lãnh trên con rạch Bến Nghé để cung cấp cá cho các
vựa chánh bán sĩ; từ đó họ sẽ phân phối lại cho các bạn hàng buôn bán lẻ. Cá ở
Biển Hồ to lớn hơn cá ruộng đồng Tiền Giang quê tôi. Nhiều con cá lóc bự bằng
cổ chân người lớn, một bàn tay cầm không giáp vòng. Mỗi ghe cá chứa hàng mấy
ngàn con dưới lòng ghe có ba ngăn, bên trên lót ván làm sàn có chừa nắp làm chỗ
thòng vợt xuống vớt cá. Con nào con nấy khi được vớt lên đều sứt đầu vỡ trán
chứng tỏ chúng không ngừng tung mình tìm cách thoát thân.
Cá lóc cũng như cá trê có nhiều màu da vẩy
đậm lợt khác nhau, từ vàng lợt tới đen mun. Vì lớn con và có nhiều thịt, cá lóc
bán mắc hơn cá trê, và có thể chế biến thành nhiều món ăn ngon lành đa dạng
hơn, từ món ăn thường ngày trong gia đình như canh, kho, chiên, cho đến món
nhậu hay tiệc tùng như nướng, hấp, trộn gỏi, cháo, lẩu, v.v. Ngoài ra còn có
các phó sản khô, mắm, và chà bông.
Mấy năm 73,74,75, tôi có ở Mã Lai Á, một xứ
có địa thế, khí hậu và sinh thực vật không khác chi mấy với quê nhà, cá cũng có
cá trê, cá lóc, cá phi. Hai vùng ngoại ô của thủ phủ Kuala Lumpur là Ampang và
Petaling Jaya có nhiều ao hồ nguyên là quặng mỏ thiếc đã khai thác hết rồi, nay
là ao nuôi cá của các nông trại trồng trọt và chăn nuôi, phần lớn do người gốc
Hoa làm chủ. Trong thời gian ở Kuala Lumpur, hầu như cuối tuần nào tôi cũng đi
câu. Để bắt kịp với trào lưu tiến hóa của dân câu, tôi cũng muốn trở thành một
tay câu hiện đại. Tôi sắm luôn mấy bộ đồ nghề loại xịn hiệu Mitchell, Daiwa,
gồm đủ mọi thứ lỉnh kỉnh như hộp đựng, cần câu, máy phăng giây câu, nhợ, lưỡi
câu, chì, phao, kềm, đồ nông miệng cá, mồi giả, vợt, giỏ (xếp lại được), ghế
xếp. Đó là chưa kể trang phục đặc biệt giày ống, quần ny lông, nón vải rộng
vành, thuốc thoa muỗi, kiếng mát, áo mưa, v.v.
Lý tưởng hơn cả là đi câu chung với một
người bạn có cùng sở thích. Hai người hai chiếc Honda hẹn nhau đi câu thật sớm
khi đèn đường phố chưa tắt. Đi khoảng một tiếng đồng hồ thì đến nơi, mặt trời
vừa lên sau rặng cây, cỏ còn đẩm ướt sương đêm, mặt nước ao bốc hơi và tỏa một
làn khói mỏng là đà, cá quẫy nước hay đớp một con muỗi mòng nào nghe lõm bõm.
Đôi bạn hít thở không khí trong lành của buổi tinh sương và cảm nhận sinh khí
của đất trời đang thấm nhập vào lòng mình. Họ chọn chỗ đặt ghế ngồi, lắp cần,
móc mồi và ném giây. Cục chì chạm nước đánh chủm, chiếc phao nhấp nhô một chút
rồi đứng yên. Hai ông câu có thể gác cần lên hộp đồ nghề, nhẩn nha lấy chiếc
bình thủy đựng cà phê ra nhấm nháp, lấy thuốc lá ra hít vài hơi và tận hưởng
thú vui của ông câu.
Tôi rất ngạc nhiên khi biết là cá lóc cũng
ở suối và cũng vượt vũ môn. Thấy vài người gốc Hoa đứng câu ở đó và giựt được
cá, tôi cũng xách cần câu đến đó thử vận may. Vừa quăng con mồi ra xa giữa
dòng, tôi đã cảm thấy cần câu có sức trì kéo khá mạnh. Tôi thích chí vô cùng,
vừa quây thâu giây lại vừa hồi hộp. Một con cá lóc tung lên khỏi mặt nước đưa
bụng trắng nõn. Cá chạy xuôi dòng rồi ngược dòng. Tôi nương giây chạy theo
hướng cá, lúc thâu, lúc thả, cố giữ cho giây vừa độ căng. Sợ cá chạy vuột, tôi
vừa thâu giây vừa đi xuống mé nước. Anh bạn xách vợt cán dài chạy đến phụ vớt
cá lên. Con cá lóc bự sự trắng tươi quẫy đã mạnh, trái tim tôi đập còn mạnh hơn
vì lần đầu tiên trong đời, tôi câu được con cá lóc ở suối bằng mồi giả!
Người ta thường nói một câu danh ngôn, “Cho
người nào một con cá là cho người đó một bữa ăn; dạy người nào câu cá là cho họ
có thức ăn cả đời.” Dân câu đực rựa thì lại nói như vầy, “Cho người đàn ông một
con cá là vợ ông ta phải mất công nấu một bữa ăn; dạy người đàn ông câu cá là
cuối tuần ông ta trốn vợ đi mất biệt!”
Cũng giống như bất cứ người đàn ông nào
khác trên đời, tôi thích câu cá nhưng tôi rất ngại làm cá. Câu cá về, tôi lẹ lẹ
bàn giao cho đầu bếp trong gia đình tùy nghi xử dụng, tôi không cần biết tới.
Những lúc sống xa gia đình, tôi đem cá cho bạn bè hoặc người quen. Tôi chỉ bán
cá một lần hồi tôi còn nhỏ ở dưới quê ngoại, nhưng sau đó, tôi hối hận hoài.
Một hôm tôi đi câu ngoài ruộng được mấy con cá trê và vài chục cá rô. Trên
đường về, tôi bị một bà lão trong làng nài nỉ mua số cá của tôi. Tự thuở giờ,
tôi không hề biết giá cả của cá ra sao, cũng chẳng biết giá trị của đồng tiền
như thế nào. Ngày đó, tiền giấy với các giá đơn vị xu vẫn còn lưu hành. Bà lão
tự động trúc cá từ trong đục của tôi sang cái rỗ của bà rồi móc hai tờ năm mươi
xu đưa cho tôi. Người xưa hay nói chữ nho kiến tài ám nhãn, thấy tiền mờ mắt.
Tôi mờ mắt thật, và để rồi tôi khóc trong hối hận, nước mắt ròng ròng, khi tôi
về đến nhà và mẹ tôi hỏi hôm nay câu có được nhiều cá không. Tôi kể lại cho mẹ
tôi số cá tôi bán và số tiền tôi kiếm được. Mẹ tôi mới nói cho tôi biết rằng số
cá đó đủ làm món ăn cho một bữa cơm cho cả nhà; còn đồng bạc tôi kiếm được chỉ
mua được nửa ổ bánh mì trét tương cho tôi ăn. Thằng bé khù khờ đã bị bà già gạt
gẫm. Từ đó trở đi, tôi không bao giờ bán cá nữa, thà là cho không.
Kể từ đầu thập niên 80, tôi không còn câu
cá nữa, mặc dù ăn cá thì vẫn ăn, có khi còn ăn bạo hơn trước, vì về già tôi
cũng bày đặt quan tâm đến chuyện giữ gìn sức khoẻ, tránh bớt ăn thịt và ăn thêm
nhiều cá. Bao nhiêu đồ nghề câu, tôi cho bạn bè người quen hết. Những lần đi
Florida nghỉ hè thăm bà con, tôi chỉ bắt cua, bắt ốc, mang về rửa sạch thảy vô
nồi luộc lên ăn, đơn giản như là đang giỡn. Nếu có ghiền câu cá lắm, tôi cũng
chỉ ra các cầu tàu vừa ngó người ta câu cá vừa ngó các cô người cá đã mọc chân
đang đứng trên bờ. Không phải chỉ có một mình tôi tò mò chờ xem người ta câu
cá. Một bầy bồ nông xám xịt xấu xí cũng chầu chực gần đấy. Chúng rất hỗn hào du
côn như những tay anh chị đứng bến, vừa thấy người ta kéo cá lên là bay ào đến
giành giựt, đúng y như là một bầy kên kên ở Phi châu thường thấy trong các phim
tài liệu của National Geographic. Thật là trái với hình ảnh đẹp đẽ của một con
chim thằng chài với bộ lông màu xanh thẫm óng mượt ở quê nhà thường lẻ loi đậu
trên nhánh cây bần, cây vẹt, cây mắm ven mương nghiêng nghiêng cái đầu khi săn
cá; để rồi khi chọn đúng con mồi vừa ý là chớp nhoáng bay vụt xuống xớt nhẹ một
con cá lòng tong vừa trồi lên mặt nước.
Ngày
nay, tôi đi câu bằng trí tưởng tượng. Tôi thư thả đọc thơ văn, chiêm nghiệm và
sống với tâm cảnh của tác giả, của cổ nhân. Tôi tìm thấy trên địa chỉ trang
mạng http://geocities.com/nquangus/truyen/cauca.htm, một ông câu thuộc hạng đam
mê và nhà nghề chỉ đề tên tắt là Mệ ở Houston, Texas có viết khá đầy đủ về kinh
nghiệm đi câu cá của ông, trong đó ông có kể kinh nghiệm đứng dưới nước biển
câu cá ở Galveston rất thú vị đối với cư dân đất liền như người Toronto chúng
ta:
“Đi câu, ai lại không lội, lẽ dĩ nhiên, cần gì phải nói.
Không, đây là một lối câu rất thú vị, lại bắt được nhiều cá hơn cả. Chẳng vậy
mà nhiều tàu câu lái tới nơi, neo lại, mọi người trên tàu đều xuống nước, lội
bộ.
Những người câu thường, mỗi mùa câu được trên dưới 100 con,
những tay thiện nghệ chỉ câu "mồi giả" được ít nhất là 200 con. Có lẽ
vì thế mà nay bị hạn chế về cỡ và số lượng của loại cá này, mỗi người mỗi lần
chỉ câu được 10 con và mỗi ngày được mang về tối đa 20 con mà thôi, thay vì
không hạn chế như lúc trước. Cỡ cá phải dài hơn 14" .
Tôi câu bằng cách lội này dở lắm vì hay mỏi chân, thỉnh
thoảng phải vào bờ nghỉ ngơi, nếu ráng đứng lâu có thể bị vọp bẻ (cramp). Bởi
vậy rất ít khi tôi câu đủ số cá mong muốn. Cá flounder to nhất mà tôi câu được
chỉ dài cỡ 24". Nhưng con và cháu tôi mới mười tuổi đã từng câu được con
to bằng tờ báo, cả bề dài lẩn bề ngang, trên 27". Nếu quí bạn câu không
tin, lấy tờ báo ra đo, hoặc có dịp trông thấy hình nó chụp đang ôm con cá. Lúc
chín tuổi, cháu nhỏ này câu thi với các bạn đồng đội "Boy Scout",
đoạt được ba giải:cá lớn nhất, cá nhỏ nhất và cá nhiều nhất.”
Thi văn liên quan đến thú câu cá không
nhiều. Ngay cả trong ca dao cũng hiếm thấy hình ảnh của ông câu, của cá lóc, cá
trê, cá rô, cá sặc là các loại cá gắn liền với nếp sống đồng quê. Cá có mặt
trong một vài thành ngữ như Cá mè đè cá chép, Cá lớn nuốt cá bé, Cá buôi lội
ngược, cá nược lội xuôi, v.v. Người ta nhắc tới ánh trăng vàng, lũy tre xanh,
cánh cò trắng, tiếng sáo diều, mục đồng, trâu cày ruộng. Còn mấy con cá thòi
lòi, lòng tong, tép bò, cá trắng, ốc bươu bị chê, bị kỳ thị, bị lãng quên một
cách tội nghiệp. Tôi tự hứa tôi phải lần lượt đưa chúng vào thơ, dù có bị gán
cho là thơ con cóc, con nhái, con tép, con cá cũng mặc. Nhưng trước tiên, ta
hãy thử đi tìm các áng thi văn xưa.
Người Trung Hoa xưa xếp bốn loại sinh hoạt
đồng áng là ngư, tiều, canh, mục; thơ văn nói về những thú sinh hoạt này hẳn
phải nhiều, chỉ tội một nỗi là tôi chẳng biết tìm ở đâu thôi. Nhờ đọc quyển Hương
Sắc Trong Vườn Văn của học giả Nguyễn Hiến Lê, tôi chộp được bài thơ sau
đây:
Ngư Phủ Từ
Tị thế thùy luân bất ký
niên.
Quan cao tranh đắc tự quân nhàn?
Khuynh bạch tửu, đối thanh san.
Tiếu chỉ sài môn đãi nguyệt hoàn.
Quan cao tranh đắc tự quân nhàn?
Khuynh bạch tửu, đối thanh san.
Tiếu chỉ sài môn đãi nguyệt hoàn.
Lý Tuân
Mỗi lần gặp một bài thơ phiên âm từ gốc chữ
Hán, tôi tra tự điển muốn khùng luôn. Nhiều khi một chữ có rất nhiều nghĩa, tôi
phải lựa nghĩa nào cho hợp với ý của bài (context). Tra nghĩa từng chữ xong,
tôi ráp lại nguyên câu, lại đoán nữa; ráp lại nguyên bài, nhiều khi không hiểu
gì cả. Tôi ước phải chi Hán mình rộng thêm một chút!
Ngư phủ = người đánh cá, lưới cá, bắt cá,
câu cá; Từ = một thể thơ văn;
Tị = lánh, tránh đi; Thế = đời; Thùy = ném,
quăng xuống; Luân = giây câu bằng nhợ. Thùy luân = quăng giây câu để câu cá; Bất
= không; Ký = ghi; Niên = năm; Bất ký niên = không ghi năm, không biết mấy năm,
hay là không cần nhớ đến thời gian?
Quan = quan chức; Cao = cao; Tranh = tranh
giành; Đắc = được; Tự = tự mình; Quân = tiếng xưng hô của vợ chồng với nhau
hoặc giữa người ngang hàng nhau, chẳng hạn như "bạn à", "chàng
à", "mình à", "anh à", "em à", v.v.; Nhàn =
nhàn rỗi;
Khuynh = nghiêng; bạch tửu = rượu trắng;
Đối = đối mặt; Thanh san = núi xanh;
Tiếu = cười; Chỉ = ngón tay chỉ; Sài môn =
cửa củi, tức cửa nhà nghèo làm bằng cây sơ sài như củi vậy, lỡ kẹt khi thiếu
củi tháo cái cửa ra chụm đỡ cũng được; Đãi = tiếp rước; Nguyệt hoàn = vòng
trăng, tức trăng tròn.
Xin dịch là: Bài Vịnh Ông
Câu
Vui thú ông câu để lánh đời
Công danh chẳng ước, chỉ nhàn thôi
Núi xanh, ta rót mời rượu trắng
Đón trăng, cửa liếp cứ vào chơi. (PH)
Công danh chẳng ước, chỉ nhàn thôi
Núi xanh, ta rót mời rượu trắng
Đón trăng, cửa liếp cứ vào chơi. (PH)
Thế sự thăng trầm quân mạc
vấn,
Yên ba thâm xứ hữu ngư chu,
Yên ba thâm xứ hữu ngư chu,
Dịch:
Thế sự thăng trầm anh chớ
hỏi,
Khói sông thăm thẳm một thuyền câu.
Khói sông thăm thẳm một thuyền câu.
Hai câu thơ đó không biết của ai, nhưng
chắc phải của một tay lánh đời hoặc muốn tạm quên cái sự đời đầy căng thẳng hầu
lấy lại sự bình thản cho tâm hồn, cũng giống như mấy xếp lớn của công ty, lâu
lâu bỏ sở về sớm chiều Thứ Sáu sau khi đã để lại trên bàn giấy một tấm bảng có
mấy chữ Gone Fishing! Xếp công ty lớn cỡ Royal Bank, Nortel, Corel đi câu bằng
máy bay riêng, tàu riêng câu cá bự cỡ cá lưỡi kiếm trong Vịnh Mễ Tây Cơ, cá
lake trout ngoài hồ Ontario, hay cá salmon trên tận Alaska. Xếp của mấy cửa
tiệm nhí Việt Nam trong thành phố nói đi câu thì coi chừng họ chỉ đi câu cá ...
ngựa trong trường đua Woodbine! Trong một sở làm, khi xếp lớn đã chuồn sớm để
đi câu cá rồi thì mớ nhân viên còn ở lại cũng câu, nhưng mà câu giờ!
Bây giờ mời bạn đọc lại bài Thu Điếu
(Mùa Thu Câu Cá) của Nguyễn Khuyến sau đây, có khi là bạn đã thuộc lòng rồi:
Một chiếc thuyền con bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Bài thơ đọc lên nghe êm ả quá đi mất, phải
không bạn? Thanh âm bình trắc lên xuống nhịp nhàng, ngữ cảnh dùng rất khéo,
giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét, bố cục vững vàng, dẫn dắt người đọc từ gần
ra xa, từ xa đến gần, từ ao thu nước trong có chiếc thuyền nhìn lên có lá vàng
bay nơi ngõ trúc vắng và từng mây lơ lửng trên bầu trời xanh ngắt; định bỏ cần
câu xuống để rảnh rang hương thú vui thanh nhàn ngắm cảnh thiên nhiên mà không
được vì dường như là cá đớp gây tiếng động dưới đám bèo. Tưởng tượng ra mà bắt
mê. Nhưng cá mà đớp động dưới chân bèo, sao tôi nghi cá sặc quá.
Ca dao và hát ru, tôi nhớ có mấy câu sau đây:
Cá không ăn muối, cá ươn,
Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư. (Nghe hai câu ca dao nầy tôi cảm thấy hơi quê như thể nó ám chỉ tôi)
Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư. (Nghe hai câu ca dao nầy tôi cảm thấy hơi quê như thể nó ám chỉ tôi)
Lấy chồng làm lẻ khỏi lo
Cơm nguội đầy rá, cá kho đầy nồi.
Cơm nguội đầy rá, cá kho đầy nồi.
Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá, cá lặn; trông sao, sao mờ. (Chắc là người đẹp cho nên cá và trăng cũng phải thẹn mà chuồn êm)
Trông cá, cá lặn; trông sao, sao mờ. (Chắc là người đẹp cho nên cá và trăng cũng phải thẹn mà chuồn êm)
Mùng bốn cá đi ăn thề,
Đến khi cá về, cá vượt vũ môn.
Đến khi cá về, cá vượt vũ môn.
Cá chuồn không cánh mà bay
Cá trê không cẳng mà hay lên bờ. (Tôi bịa)
Cá trê không cẳng mà hay lên bờ. (Tôi bịa)
Má ơi đừng đánh con đau,
Để con bắt ốc hái rau má nhờ. (Má mà đánh con, chắc là má ghẻ)
Để con bắt ốc hái rau má nhờ. (Má mà đánh con, chắc là má ghẻ)
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn
còng,
Về bưng ăn ốc, về đồng ăn cua. (Hoặc Về sông ăn cá, về đồng ăn cua)
Về bưng ăn ốc, về đồng ăn cua. (Hoặc Về sông ăn cá, về đồng ăn cua)
Má ơi con vịt chết chìm.
Con thò tay xuống vớt, cá lìm kìm nó cắn con. (Vịt là loài sống ở dưới nước, vậy mà chết chìm, ngộ hé! Lại còn cá lìm kìm cắn nữa! Cái miệng nó tí tẹo làm sao mà cắn được.)
Con thò tay xuống vớt, cá lìm kìm nó cắn con. (Vịt là loài sống ở dưới nước, vậy mà chết chìm, ngộ hé! Lại còn cá lìm kìm cắn nữa! Cái miệng nó tí tẹo làm sao mà cắn được.)
Chim quyên ăn trái nhãn
lồng.
Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi. (Hơi tỏi, hơi bia, hơi thuốc lá?)
Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi. (Hơi tỏi, hơi bia, hơi thuốc lá?)
Năm 1958, Huy Cận làm một bài thơ hay, đáng kể là hay
nhất kể từ khi theo cộng sản năm 1945, có giá trị nghệ thuật, trong đó nhắc đến
tên của nhiều loại cá biển, nghe vui vui, mặc dù vài ý không ổn:
Đoàn Thuyền Đánh Cá
Mặt trời xuống biển như hòn
lửa
Sáng đã cài then đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Sáng đã cài then đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng cá bạc biển Đông
lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi,
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,
Đến dệt thuyền ta, đoàn cá ơi.
Cá thu biển Đông như đoàn thoi,
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,
Đến dệt thuyền ta, đoàn cá ơi.
Thuyền ta lái gió với buồm
trăng,
Lướt giữa mây cao với biển bằng.
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Giàn đan thế trận lưới vây giăng.
Lướt giữa mây cao với biển bằng.
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Giàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ, cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thơ, sao lùa nước Hạ Long.
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thơ, sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào.
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự thuở nào.
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự thuở nào.
Sao mờ kéo lưới kịp trời
sáng.
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẫy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp, buồm lên đón nắng hồng.
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẫy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp, buồm lên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió
khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Bài thơ đầy ắp hình ảnh, màu sắc, âm điệu đẹp quá, nhưng rất tiếc lại biểu lộ cái ý gian ác. Đã trìu mến gọi cá bằng em (Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe) và ví biển khơi là lòng mẹ (Biển cho ta cá như lòng mẹ) thì nỡ lòng nào giàn thế trận đánh cá như đánh giặc (Giàn đan thế trận lưới vây giăng) rồi dùng lời ca dụ dỗ cá vào chỗ chết (Ta hát bài ca gọi cá vào). Tệ hại hơn nữa, sau khi Mỹ bắt đầu dội bom miền Bắc giữa thập niên 1960, Huy Cận sửa tựa bài thơ trên là Đoàn Thuyền Đánh Cá Và Đánh Mỹ và đổi lời một vài câu cho càng tăng thêm tính chất sắt máu đấu tranh và trâu đánh!
Vì tác giả là đảng viên cộng sản gộc có
chân trong chính trị bộ, lại đang nắm chức Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa cho nên bài
thơ trên hiên ngang đi vào chương trình học lớp 8 phổ thông của miền Bắc.
Bài viết nầy cũng xin được kết thúc bằng
một bài thơ. Đặc biệt, bài thơ nầy sặc mùi tôm cá.
Câu Cá Quê Tôi
Tôi vẫn nhớ những chiều con
nước lớn,
Mương sau nhà sàn nước mẹ vo cơm.
Cá lòng tong giành rỉa cám gạo thơm,
Tôi hí hửng thả cần câu mấy chú.
Mương sau nhà sàn nước mẹ vo cơm.
Cá lòng tong giành rỉa cám gạo thơm,
Tôi hí hửng thả cần câu mấy chú.
Câu với tôi trở thành niềm
vui thú,
Ra ruộng đồng câu cá lóc khỏi chê,
Trở nên tay chuyên trị cá rô mề.
Trong một buổi, cá câu đầy nặng giỏ.
Ra ruộng đồng câu cá lóc khỏi chê,
Trở nên tay chuyên trị cá rô mề.
Trong một buổi, cá câu đầy nặng giỏ.
Tháng trước Tết, ngoại sai
tôi phát cỏ
Ao vườn nhà, cậu tát, cá nhiều ghê!
Nào cá trèn, sặc bướm, chạch, lươn, trê.
Kèo, chạch, ốc, rắn hàm ri cũng có.
Ao vườn nhà, cậu tát, cá nhiều ghê!
Nào cá trèn, sặc bướm, chạch, lươn, trê.
Kèo, chạch, ốc, rắn hàm ri cũng có.
Tép bạc trắng, tôm càng
xanh râu ló,
Mương thả chà, tát cạn bắt đem lên.
Tôi lăn xăn bắt cá, mệt cũng quên,
Và năm đó, cả nhà ăn cá đã!
Mương thả chà, tát cạn bắt đem lên.
Tôi lăn xăn bắt cá, mệt cũng quên,
Và năm đó, cả nhà ăn cá đã!
Rắn hàm ri bằm nát xào ớt
xả.
Bánh tráng mè nướng xúc, hít hà cay.
Tôm nướng lên ăn bún chép môi hoài.
Ốc nấu bung một nồi, ăn chẳng ngán!
Bánh tráng mè nướng xúc, hít hà cay.
Tôm nướng lên ăn bún chép môi hoài.
Ốc nấu bung một nồi, ăn chẳng ngán!
Cá rộng khạp ăn dần luôn cả
tháng,
Chạch, kèo đem kho tộ bỏ tiêu xay.
Sặc, lươn, trèn đem nấu mắm ăn ngay,
Trê đem nấu canh khoai môn khoai mỡ.
Chạch, kèo đem kho tộ bỏ tiêu xay.
Sặc, lươn, trèn đem nấu mắm ăn ngay,
Trê đem nấu canh khoai môn khoai mỡ.
Giờ nhắc lại sao tôi thèm
quá cỡ.
Những món ăn tôm cá của quê nhà.
Món bây giờ không kiếm ở đâu ra,
Ôi kỷ niệm những ngày thơ câu cá.
Những món ăn tôm cá của quê nhà.
Món bây giờ không kiếm ở đâu ra,
Ôi kỷ niệm những ngày thơ câu cá.
Phan Hạnh.
Tôi không thể cảm ơn Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đủ để giúp tôi khôi phục lại cuộc hôn nhân của mình với niềm vui và sự an tâm của nhiều vấn đề gần như dẫn đến ly hôn. Cảm ơn Chúa, tôi đã tổ chức Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đúng giờ. Hôm nay tôi có thể nói với bạn rằng Tiến sĩ EKPEN TEMPLE là giải pháp cho vấn đề này trong hôn nhân và mối quan hệ của bạn. Liên lạc với anh ấy tại (ekpentemple@gmail.com)
ReplyDelete