Ngôi Nhà Tôi Chào Đời
________________________________________
Ảnh minh họa
Thấy em mừng như lá uống sương.
Như me chấm với nước đường,
Như con cá lóc dưới mương ăn mồi.
Đố em trái me kia mấy mắt?
Chùm me kia xanh ngắt chờ ai?
Răng em mà cắn me nầy,
Cả Ba với Má không rầy cũng la.
Con đường nầy em qua mấy bận?
Cây mắc cỡ còn giận em không?
Guốc vông mang với gót hồng,
Cũng vì cưng vợ nên chồng đạp gai.
Bên bờ mương có cây trái mắm.
Chim chìa vôi ngộ lắm em ơi.
Thòi lòi nhảy lội loi choi,
Phùng mang hát bội em coi mắc cười.
Rau càng cua không chua không ngọt;
Cá bãi trầu phun bọt dưới mương.
Thấy em con nít, anh thương,
Bên chồng quấn quít như tương với cà.
Giây tóc tiên quấn giàn bông giấy;
Đọt xoài non em lấy nấu canh.
Tép bò, cá trắng xào hành.
Khoai lang bí đỏ vài khoanh nấu dừa.
Mấy bữa trước trời mưa mây tía,
Cá trê lên luống mía ăn trùn.
Nước lên lấp xấp vồng gừng.
Em đi cầu ván ngập ngừng quíu chưn.
Nắng tròm trèm ếch thèm bông mướp,
Bầy lòng tong tươm tướp sát bờ.
Cắm câu, quăng vó, đặt lờ,
Anh lo công chuyện, em chờ dọn cơm.
Bông sua đũa trắng phau sân trước,
Sào anh quơ một lượt đầy bao.
Em ngồi giặt áo bờ ao.
Vài con bướm nhỏ lao xao khóm lài.
Tới Tết nầy mình đầy năm cưới,
Em đòi về xóm dưới thăm Ba
Má khen em rất mặn mà,
Ba khen anh tánh thật thà siêng năng.
Khi mẹ tôi gần tới ngày ở cử, cha tôi đưa về gởi ở nhà ông
bà ngoại tôi. Mẹ tôi muốn được bà ngoại tôi săn sóc trong khi sanh nở. Tôi tò
mò nuốn biết nơi chào đời của tôi, dù tôi có từ dưới đất chui lên như một con
trùn theo lời mẹ đùa ghẹo. Đó là một cái chòi nền đất vách phên lợp lá rộng khoảng
hai chục thước vuông, chỉ được dùng làm nhà bảo sanh riêng cho gia đình. Từ nhiều
năm, bao nhiêu đứa bé cất tiếng khóc đầu tiên ở đó. Trong căn chòi đó có kê một
cái giường tre, bên dưới có để một cái lò đất sét cho sản phụ hơ lửa. Kê gần
giường là cái sạp cao hơn dùng làm bàn để vật dụng và bàn ăn và một cái ghế kê
sát vách. Căn chòi không có cửa sổ, chỉ có cửa ra vào cũng bằng phên. Theo nếp
sống của ông bà xưa, người mẹ non ngày non tháng cần phải kiêng cử gió, nước và
nhiều món thức ăn lỏng mát như canh chua, rau cải chưa nấu chín, trái cây, v.v.
Những lúc không dùng đến, cánh cửa được đóng lại và buộc chặt bằng một sợi giây
lạt dừa. Đầu năm 1944, tôi lọt lòng, bị bà mụ vườn tát đít mấy cái liền. Mới
láo ngáo chui ra là đã bị ăn đòn, thằng nhỏ cân nặng chưa đầy ba kí khóc oe oe,
tiếng khóc kỳ diệu làm cho cõi lòng người mẹ trẻ ngập tràn sung sướng yêu
thương.
Bây giờ tôi lại mượn lời của người vợ là mẹ tôi để dặn dò với
chồng là cha tôi khi tạm sống xa nhau:
Người Vợ Quê
Chiều vo gạo tám bên sông,
Chim kêu sóng vỗ chạnh lòng sắc son.
Hai quê sao giữ cho tròn,
Về nhà Má đỡ mỏi mòn ngóng trông.
Khuyên anh nên chớ đèo bồng,
Vắng em đừng có phụ lòng người ta.
Trong lúc ấy, quê cha đang có loạn lạc khi quân đội Việt
Pháp và du kích Việt Minh giao tranh ác liệt. Làng Bình Phục Nhứt chìm trong
khói lửa. Gia đình ông bà nội tôi bị giết tập thể tất cả là bảy người, còn lại
sáu người sống sót nhờ đã tìm nơi trú ẩn lánh nạn kịp thời. Riêng ông nội tôi ở
lại với gia đình thì bị tra tấn bầm dập để khai thác tin tức của Việt Minh, mặc
dù ông không biết một chút gì về đám du kích cả. Bảy người chết thảm trong gia
đình ông nội là ông bà cố, em bà cố, bà nội và ba người cô. Nhà của ông bà nội
bị đốt cháy rụi. Lúc ấy, chú út tôi chỉ mới mấy tháng tuổi mà đã mất mẹ, phải uống
nước cháo thay cho sữa mẹ.
Hay tin dữ, mẹ tôi dù chưa cứng cáp hoàn toàn sau khi sinh nở
đã phải hối hả bồng con thơ quay về lại quê chồng để chịu đại tang. Người thiếu
phụ chân quê ấy vừa nuôi con vừa cho em chồng bú thép trong cảnh cơ hàn màn trời
chiếu đất. Ông nội tôi chịu đựng cùng cực nỗi đau thương thể xác lẫn tâm hồn,
chỉ muốn tự tử. Người thân phải ngăn cản và thường trực để mắt canh chừng ông.
Nhưng làm sao giữ mãi được một người đã không thiết sống. Vì vậy chỉ mấy năm
sau, ông nội tôi được toại nguyện, đi về bên kia thế giới để gặp lại cha mẹ, vợ
con.
Sữa Mẹ Và Đứa Con So
Mẹ sinh con những ngày bão táp,
Năm bốn tư giặc Pháp đốt làng.
Khóc trong chết chóc điêu tàn.
Cả nhà quê nội tan hoang hết rồi.
Sữa mẹ hai trẻ thơ bú mãi,
Sữa thương yêu, sợ hãi, đớn đau.
Mẹ mười tám, biết làm sao,
Nuôi không tròn vẹn, mẹ nao cõi lòng.
Sữa mẹ pha lẫn mùi tro bụi,
Vị cay cay khói rụi mái tranh.
Bú đi con, mẹ dỗ dành,
Mồ hôi loang sữa, mùi tanh còn nồng.
Sữa mẹ mấy phần trăm chất béo?
Bú ngày đêm cũng héo hon đây.
Tội em mất mẹ non ngày,
Bú đi, dẫu chị có gầy tấm thân.
Mẹ tôi tay bế tay bồng,
Nuôi con, nuôi cả em chồng mồ côi.
Tôi và chú tôi cùng lớn lên trong sự đùm bọc thương yêu của
mẹ tôi, chẳng khác nào như hai anh em sinh đôi. Nhưng sau nầy lớn lên, chú tôi
cũng trở nên lầm lì, ít nói và nghiêm nghị như ông nội tôi. Dường như lúc nào
chú cũng mang một nỗi buồn trống vắng hay một mối mặc cảm bơ vơ. Chú hút thuốc,
uống rượu, lăn lóc với đời sớm và từng trãi hơn tôi. Chú mất năm 29 tuổi, không
vợ, không con, như thể từ lâu lắm đã có ý trốn khỏi chốn trần gian nầy nên
không muốn bận bịu thê nhi.
Ông bà nội tôi có tất cả chín người con. Cha tôi đầu lòng,
chú tôi út chót, ở giữa và còn sống sót là bốn người cô. Gia đình còn lại gồm
tám mạng người bồng bế nhau lìa bỏ thôn xóm mang quá nhiều kỷ niệm đau thương để
ra quận lỵ mà sống, mong tìm được sự an ninh. Với sự trợ giúp của họ hàng thân
tộc, gia đình tôi mướn và ở trọ tại nhà một người quen.
Sau đó chẳng bao lâu, vào một đêm khuya cha tôi bị Việt Minh
bắt theo họ vào bưng biền kháng chiến với nhiệm vụ của một y tá cứu thương, mãi
đến cả năm sau mới thoát được trở về nhà. Nhưng rồi đến lượt quân đội Việt Pháp
bắt cha tôi về tội hoạt động cho Việt Minh. Tôi còn nhớ buổi trưa hôm ấy, gia
đình đang ngồi dưới đất ăn cơm. Nhà dưới quê ban ngày luôn luôn để cửa mơ. Cha
tôi ơ trần ngồi xếp bằng trước mâm cơm vì trời nóng nực. Toán lính bước vô.
Chúng tôi ngơ ngác sợ hãi. Người trưởng toán bảo có lịnh của quận bắt cha tôi
lên quận. Cha tôi xin vào nhà trong để lấy áo mặc, họ cũng không cho, còn bắt cha
tôi phải quì gối chờ mẹ tôi lấy áo. Xong họ dẫn cha tôi đi. Tôi không nhớ mẹ
con tôi có ai khóc hay không; tôi chỉ biết là tôi rất sợ hãi.
Trong khoảng thời gian mấy tháng cha tôi bị giam cầm, có những
lần lính Việt Pháp dẫn toán tù đi ngang qua nhà tôi để vào xóm trong làm tạp dịch
phát quang đốn lau sậy. Tôi nhìn thấy cha tôi trong đám tù thiểu não đó nhưng
chẳng dám chạy lại gần. Tôi, chú tôi, em trai tôi chỉ đứng bám vào vách bổ kho
dõi mắt nhìn qua kẽ ván. Trí óc non nớt của trẻ thơ cũng thoáng hiện một nỗi lo
sợ cho mạng sống của cha tôi dưới mũi súng đen ngòm. Bây giờ hồi tương lại, tôi
thấy thương mẹ tôi trong hoàn cảnh khó khăn đó vô cùng. Thế rồi cha tôi được trả
tự do nhờ sự cảm thông và rộng lượng của viên quan hai người Pháp trưởng đồn
qua những lần tiếp xúc và trò chuyện trực tiếp với cha tôi. Về nhà, cha tôi kể
rằng trong thời gian ông nằm trong ngục thất, cứ vài bữa lại có một vị tuyên úy
người Pháp vào làm lễ rửa tội cho một tù nhân nào đó thì ngày hôm sau, tù nhân
đó bị bịt mắt đem đi xử bắn. Gặp vị tuyên úy người Pháp nầy vài lần, cha tôi tạo
cơ hội làm quen, xin ông cứu giúp và can thiệp. Do đó, cha tôi được trả tự do.
Cha Bị Bắt
Bữa cơm trưa cha trần trùn trục,
Thân gầy trơ xương ngực vì đau,
Nuốt chưa trôi chén canh rau,
Lính Tây ập đến bắt mau đi liền.
Con sợ quá sững nhìn kinh hãi.
Mẹ ôm con, ngó mãi theo cha.
Cha hoạn nạn, mẹ xót
xa.
Mới vui đoàn tụ lại đà chia ly.
Đoàn tù qua nhà, tay bị trói.
Thấy cha gầy, mẹ nhói buồng tim.
Ngó theo, con đứng im lìm.
Dường như cha cố ngoái tìm nhìn con.
Hay người ta đem cha đi giết?
Mẹ thật thà, hiểu biết đâu xa.
Số cha may mắn được tha,
Qua làn nước mắt, cả nhà mừng vui.
Không thể sống mãi trong cảnh một cổ hai tròng, trên đe dưới
búa nơi vùng xôi đậu, cha tôi dắt theo người em gái kế bỏ lên Sài Gòn tìm kế
sinh nhai. Thế là một lần nữa, gia đình tôi phải chứng kiến cảnh chia ly. Cha
tôi được giới thiệu và được nhận vào làm việc cho Nhà đèn Chợ Quán với chân thư
ký; còn cô tôi thì tìm được một chỗ ngồi bán trong chợ Thái Bình. Nhờ bản tánh
lanh lợi và ăn nói có duyên, cô lọt vào mắt xanh của một thầy cảnh sát; hai người
nên duyên vợ chồng.
Cha Rời Quê
Một sáng cha rời quê ra đi,
Tìm đời sống mới chốn kinh kỳ.
Mẹ với hai con còn nhỏ dại,
Lệ sầu nhỏ giọt buổi phân ly.
Cơm sáng đơn sơ mẹ dọn
ra,
Cá kho tiêu ớt chấm
dưa cà.
Bữa ăn buồn bã chung
lần cuối.
Ắn thêm chén nữa, kẻo
đường xa.
Còi chuyến xe đò sớm cất vang.
Bùi ngùi cha xách túi hành trang.
Hai con ngái ngủ còn ngơ ngác.
Mẹ nhắn:"Anh đi được bình an!"
Lăn bánh chạy rồi
khói xe bay,
Văng vẳng hồn cha tiếng
khóc ai.
Hình ảnh vợ con vừa
xa đó,
Ẫn hiện chập chờn
trong mắt cay.
Kể từ khi về lại nhà chồng sau khi sinh ra tôi, mẹ tôi cơ cực
gian nan, đầu tắt mặt tối làm lụng vất vả. Năm 1947, một lần nữa mẹ tôi về quê
ngoại để sinh thêm một đứa con trai, tức em tôi. Lúc bấy giờ, ông nội tôi khoảng
tuổi 50, nhưng ông không còn ý chí tâm huyết đâu mà nghĩ đến chuyện làm việc nữa.
Buồn cảnh gia đình ly tán và thân phận hẩm hiu sinh bất phùng thời, ông tìm
quên trong men rượu cay và ít khi có mặt ở nhà. Mẹ tôi trở thành trụ cột của
gia đình, tần tảo nuôi cha chồng, em chồng và con thơ.
Tôi trải qua bốn năm tuổi ngọc đầu đời trong bối cảnh đó. Có
thể nó bi thương đối với ông nội tôi và cũng có thể đối với cha tôi như ông đã
thố lộ qua hai tập thơ của ông sau này, nhưng đối với mẹ tôi, lạ thay, người thản
nhiên coi đó là một trong những kỷ niệm êm đềm của cuộc đời bà. Sau này khi tôi
đã lớn hơn và đã biết nhận xét nghĩ suy, bà đã kể lại một cách trìu mến thiết
tha cho tôi nghe mà không một chút thở than. Tôi biết đó là vì lòng thương yêu
bao la của người mẹ đã làm cho bà quên hết những cơ cực của riêng mình và chỉ
thấy cái trong sáng hồn nhiên vô tư của đứa con. Mẹ tôi vốn học không nhiều
nhưng thuộc mẫu người phụ nữ đảm đang chịu đựng và bằng lòng với số phận, không
mặc cảm, không than van, nhân từ hiền đức. Năm nay, năm 2009, mẹ tôi đã 84 tuổi.
Những năm trước, khi nhà chưa có điện thoại, mẹ tôi vẫn còn thỉnh thoảng viết
thư cho tôi.
Thư Mẹ
Thư mẹ viết rung rung nét chữ,
Nhoẹt nhòe mực nguyên tử không đều.
Trải lên trang giấy thật nhiều,
Đọc lên, thấy cả tình yêu mẹ hiền.
Thư mẹ viết lỗi sai chính tả,
Con đọc lên êm ả ca dao
Mẹ sai vài lỗi chẳng sao,
Đọc thư mẹ, con nghẹn ngào mến thương.
Thư mẹ viết dùng nhiều chữ nhớ,
Nhớ bao nhiêu cái nhớ về con.
Tuổi già trí nhớ héo hon,
Mẹ sợ không nhắc, biết còn nhớ không.
Thư mẹ viết đầy hai trang giấy,
Tốn bao nhiêu giờ đấy, mẹ ơi.
Sao mẹ không chịu nghỉ ngơi,
Cảm thương cho mẹ bồi hồi lòng con.
Có những buổi xế trưa, khi chợ quận đã tan và đã được dọn dẹp
sạch sẽ, cô tám Hường bế em tôi và dắt chú út tôi cùng tôi ra chơi ở ngoài nhà
lồng chợ. Cô đặt em tôi nằm trên thớt thịt bằng gỗ đã rửa sạch và mát mẻ, bảo
tôi đứng trông chừng em một lúc để cho cô đi chơi nhảy cò cò trên nền xi-măng với
mấy đứa bạn cỡ sáu, bảy tuổi như cô. Một hôm chúng tôi đang chơi đùa trong chợ
thì có một tốp xe nhà binh chở quân lính Pháp đi hành quân dừng lại bên chợ.
Chúng tôi tò mò đứng bên đường nhìn họ nói chuyện với nhau xí xô xí xào. Một
vài người lính trong bọn họ chìa bánh bisquit ra và vẫy tay bảo chúng tôi đến gần.
Thấy bánh, đám trẻ tức khắc nhào đến xòe những bàn tay nhỏ xíu xinh xắn ra. Những
người lính Pháp này trong giây phút thanh bình đó có thể cũng chỉ là những người
cha thường tình đang cảm thấy nhớ con thơ cách xa ngàn dặm nơi quê nhà. Ngoài
bánh bisquit, họ còn cho bọn con nít chúng tôi pâté foie, nho khô và bánh mì
kho nữa.
Dĩ nhiên
chúng tôi ăn món nào cũng ngon cả vì thực ra hàng ngày đâu có món quà vặt nào
khác hơn là bánh rế của chú Sồi, người chủ nhà người Việt gốc Hoa mà cũng là chủ
lò bánh rế trong quận. Người ta gọi nó là bánh rế vì hình dáng của nó trông giống
như là một cái rế dùng để bắt nồi cơm đang nóng. Bánh làm bằng bột mì trộn hột
gà do khuôn nặn ra sợi dài có gai được khoanh lại những vòng tròn chồng tréo
nhau thành một bánh và được chiên trong vạc dầu dừa lúc nào cũng sôi sùng sục.
Chúng tôi được gặm những cái bánh bị bể hoặc bị chiên quá lưa vớt ra không kịp
bị sẫm màu.
Cắn bánh rế lâu ngày làm cho cái răng cửa của tôi lung lay
như sào chống dưới mương cho người ta vịn khi qua cầu tre lắc lẻo. Cái răng gập
ghềnh làm cho tôi rất khó chịu khiến cho tôi ngứa tay nắm nó bẻ qua bẻ lại.
Nhưng nó vẫn không gẫy. Cả nhà tôi ai cũng nhát gan, trừ chú Sồi. Chú bảo tôi
ngửa mặt nhìn lên cột nhà và đếm thầm những đuôi điếu thuốc vấn còn lại mà ông
nội tôi dán lên đó. Chúng trông giống như là những con dơi muỗi đậu trên thân
cây dừa. Trong lúc thằng nhỏ đang đếm, chú Sồi quấn một đoạn chỉ vào cái răng sữa
từ lúc nào và giật mạnh. Cái răng đã rơi ra ngoài. Tôi đưa lưỡi rà vào chỗ trống,
nghe vị mặn của chỗ thịt rỉ máu. Mẹ tôi lượm cái răng, úm ba hồn bảy vía, rồi
liệng nó lên trên nóc nhà, chẳng hiểu để làm gì.
Chiều đến khi nước bắt đầu lớn trên con rạch sau nhà cũng là
lúc mẹ tôi đi làm rẫy về. Mẹ mang về nào rau, nào cải, nào nấm rơm. Đôi khi có
thịt cá nữa. Cô sáu phụ mẹ tôi nấu nướng một lúc, bữa ăn chiều rồi cũng xong. Mẹ
tôi dắt hai chú cháu tôi ra sàn nước tắm. Chú tôi biết lội sớm vì gan lì và khỏe
mạnh dễ nuôi. Còn tôi mảnh khảnh yếu xìu, ngả lên té xuống liền liền khiến cho
hai đầu gối không bao giờ liền thẹo. Đã vậy, tôi lại thêm cái bịnh sài đầu, mẹ
tôi phải thỉnh thoảng nấu nước lá ổi tắm gội cho tôi. Tôi đòi mẹ để cho tôi lội
xuống rạch trong khi mẹ ngồi trên sàn nước lúc nào cũng nắm chặt tay tôi. Tôi lấy
hơi nín thở và cố ngụp đầu dưới nước lặn thật lâu khiến cho mẹ tôi phải lo lắng
vội kéo tôi lên, tôi lấy làm khoái chí cười nắc nẻ.
Trên bờ, cô tám còn tẩn mẩn tần mần đứng dựa gốc cây sua đũa
mải mê hát nghêu ngao, không hay biết là có cả bầy sâu rọm đeo lên lưng
áo. Đến khi thấy một con đã bò lên tay,
cô mới hoảng kinh hồn vía hét lên và nhảy ùm xuống nước! Số phận đẩy đưa, sau nầy
cô cũng lên Saigon ở chung với cô ba , cô bảy. Cô đi làm công trong một câu lạc
bộ của Mỹ, may lọt vào mắt xanh như ve chai của một ông kỹ sư làm cho hãng sữa
Foremost, được cưới về làm vợ, hưởng cuộc sống đầy đủ yên vui hạnh phúc.
Ông nội tôi như
một cái bóng lặng lẽ. Cái bóng ấy càng trở nên to lớn hơn khi nó in lên vách
lúc đêm về. Sự có mặt của một đứa cháu nội đích tôn và đứa con trai út không
giúp ông quên được nỗi buồn mất vợ, mất con, mất cha, mất mẹ, cửa nát nhà tan,
gia đình ly tán. Chú cháu tôi bị rầy la nhiều hơn là được vỗ về trìu mến. Ban
ngày ông thường hay vắng mặt, nếu không ngả nghiêng bên chén rượu cay ngoài
quán chợ thì cũng lè nhè giữa đình đám nhà nọ nhà kia. Một lần ông đi nhậu say
về khuya té ngoài bờ ruộng rồi nằm ở đó ngủ luôn một giấc cho tới sáng mới lò
mò về nhà, may không bị trúng sương trúng gió gì, hoặc bị rắn hổ mây cắn chết
như có người trong xóm đã từng bị. Những lúc ở nhà, ông hay ngồi bó gối trên bộ
ngựa thừ người ngó mông lung ra ngoài ngõ, trên môi lúc nào cũng gắn chặt một
điếu thuốc vấn. Ông rất ít nói và nhất là không hề vui chơi với con cháu. Đến hồi
cha tôi và cô ba tôi làm việc có tiền trên Saigon thì ông nằm liên miên trong
nhà thương vì đau bịnh dai dẳng. Đám
tang ông được cha tôi tổ chức rình rang, như thể để đền bù lại quãng đời thống
khổ đã qua của người cha bất hạnh.
Ông Tôi
Ông tôi sống một đời vô vị,
Đau thương và khổ lụy dập vùi.
Nghĩ đến ông, tôi ngậm ngùi.
Số phần lận đận kiếp người không may.
Chứng kiến cảnh vợ con bị giết,
Tim gan ông rên siết khổ đau.
Giặc tra tấn, ông kêu gào,
Cưa nhà cháy rụi nghẹn ngào khóc than.
Đại tai họa gia đình tan nát,
Ông như điên, ruột thắt từng ngày.
Giải sầu bằng những cơn say,
Ông muốn bỏ mặc, chết ngay cho rồi.
Mấy năm sống cuối đời đau ốm,
Rồi tử thần một sớm đón ông.
Bấy lâu cái chết chờ trông,
Bây giờ mãn nguyện thỏa lòng ra đi.
Rượu Cay Nào Giải Được Sầu
Mắt nhìn ly rượu trong
Ta thấy đời vẩn đục
Rượu xủi tăm sùng sục
Sao ta chẳng ấm lòng
Thấy gì qua rượu trong
Thấy thương yêu ngày cũ
Còn lại là buồn rũ
Uống đi những long đong
Giặc say máu giết dân
Ta say ta chết dần
Giặc đốt nhà ra than
Ta đốt cả ruột gan
Men cay tưởng giải được sầu
Uống say chỉ thấy đượm màu đau thương.
Năm sau đó là năm đánh dấu thêm một sự phân tán lớn nữa
trong gia đình. Cô tôi ăn nên làm ra, đã về quê đón cha và ba đứa em lên Saigon
chung sống; chỉ có một cô ở lại quận để đi về nhà chồng. Còn phần cha tôi,
trong một thời gian đầu, ông đã bị mê hoặc bởi ánh sáng Sài Gòn hoa lệ và một
tình yêu mới với một cô gái thị thành và ông đã để cho mẹ tôi phải bơ vơ. Mẹ
tôi đành phải dắt hai con về lại quê ngoại ở Long Bình Điền xin cha mẹ ruột cho
tá túc. Tôi giã từ Bình Phan, giã từ Bình Phục Nhứt một lần và mãi mãi. Sau đó
có nhiều lần tôi trở về thăm cô sáu tôi, nhưng không bao giờ tôi ở lại đêm ở đó
cả. Đời mẹ con tôi bước qua một ngả rẽ
mới. Ấy là năm 1948, một năm tạm coi là hòa bình với tình hình chiến tranh đột
nhiên lắng đọng. Tấn về nội, thoái về ngoại, sau năm năm làm dâu nơi nhà chồng,
mẹ tôi với mớ tuổi 23 giờ đây dắt bồng hai con dại trở về quê ngoại tôi trong
nước mắt. Đây là nước mắt mừng vui của trùng phùng tao ngộ, sum họp đoàn viên
khi đứa con được trơ về với đại gia-đình, được ngả vào vòng tay thương yêu của
mẹ cha và sự đùm bọc của anh em ruột thịt.
Nhà ông bà ngoại tôi khá lớn, gồm ba gian dọc, ba gian ngang
nối nhau theo hình chữ “L” cùng hai chái nằm trên một thưa đất rộng có vườn trước
vườn sau trồng cây ăn trái. Sân giữa lót gạch tàu có đặt những cái lu lớn để chứa
nước mưa hứng thẳng từ trên máng xối chảy xuống. Nhà vừa là tiệm bán chạp phô,
vừa là nơi cư ngụ cho ông bà ngoại, gia đình cậu Ba, dì Bảy và cậu Tám. Ông bà
ngoại tôi có bảy người con. Người con đầu lòng mất sớm, còn lại cậu ba giờ đây
coi như là con cả trong gia đình, kế đến là mẹ tôi thứ tư, dì năm vừa đi lấy chồng,
cậu sáu, dì bảy và cậu tám còn ở nhà với cha mẹ. Lúc mẹ con tôi trở về, cậu mợ
ba mới có hai người con. Ông ngoại tôi cưng
nhất đứa cháu đích tôn lanh lợi hoạt bát, một đứa cháu ngoan ngoãn biết
vâng lời ông bà. Còn tôi thì nhút nhát, lừng khừng ít nói, có lẽ vì thằng nhỏ
mang mặc cảm vắng cha, yếu thế, ăn nhờ ở đậu.
Nhà Quê Ngoại
Ông Ngoại ngủ trưa, đong đưa cái võng.
Bà ngoại nhai trầu, ngồi ngóng qua mương.
Mợ ra rẫy hái dưa hường,
Xắt ra mấy miếng chấm đường ngoại ăn.
Gió ào ào mấy tàu cau
rụng.
Con mèo mun ăn vụn
niêu cơm.
Ra vườn, mợ kiếm nấm
rơm,
Ngang cây bông sứ
nghe thơm quá chừng!
Bà ngoại già nhưng mà tỏ mắt,
Áo quần con, ngoại cắt, ngoại may.
Còng lưng ngồi suốt cả ngày,
Cậu đi lột bưởi gọt xoài ngoại ăn.
Mợ têm trầu, miếng
nào cũng khéo.
Miếng cau ngon, có
héo cũng ngon.
Cậu cười thấy mợ còn
son,
Vậy mà đã bốn đứa
con, cậu mừng.
Ngoại không giàu nhưng đông con cháu.
Thấy gia đình thuận thảo, ngoại vui.
Rẩy vườn, hoa trái tốt tươi.
Cửa nhà ngăn nắp, cơ ngơi vững vàng.
Cậu mợ ba lo nhà
hương hỏa,
Cúng gia tiên, mồ mả
ông bà.
Mợ nuôi một ít heo
gà.
Cậu lo trồng trọt vài
ba liếp vườn.
Những tháng hè, tôi về với ngoại,
Để rồi tôi trở lại đô thành.
Ngày vui qua vút quá nhanh.
Một vùng ký ức còn xanh trọn đời.
Ông ngoại tôi rất giỏi toán, lo mọi việc giấy tờ cho tiệm tạp
hóa với cái bàn toán của người Tàu. Mấy ngón tay để móng dài của ông cử động
thoan thoắt trên bàn toán rồi ông ghi ghi chép chép vào sổ sách kế toán. Ông có
một thân hình tròn trịa, đầu búi tó củ hành, mấy năm sau này ông mới cắt ngắn
đi. Vào những ngày nóng bức, ông hay cởi trần phơi ra cái bụng phệ và hai cái
vú bự sự. Ông nịt quanh bụng một cái đai centuron bằng da màu đen có nhiều ngăn
đựng tiền bạc và các món vật dụng linh tinh khác như đồng hồ quả lắc, chìa khóa
tủ, v.v.
Tôi không hiểu ông học toán ơ đâu, có điều ông dạy các cháu
nội ngoại trong nhà học cữu chương và nhiều bài toán kỳ lạ mà mãi cho đến ngày
nay, tôi vẫn chưa biết giải thích tại sao.
Anh họ tôi và tôi là hai chú tiểu đồng của ông ngoại tôi để
cho ông sai vặt. Hai công tác thường xuyên nhất là đưa võng buổi trưa và đấm
lưng, bóp bắp chân buổi tối. Tôi đưa võng nhẹ quá, ông không chịu. Tôi đưa mạnh
vù vù, ông sợ đứt võng. Tôi bóp chân, bắp chuối chân ông bự quá tay tôi bóp
không xuể. Tôi thích nhất là đứng lên cái lưng bằng phẳng như tấm thớt của ông
để bước qua bước lại. Ông coi bộ thấy đã và chịu lắm, nằm nín thinh. Một lần
tôi làm bể cái tách trà của ông. Tôi sợ lắm, bèn gom mấy mảnh vỡ thảy vào giữa bụi
tre bên kia mương. Vậy mà ông tìm vẫn ra. Tôi phục tài thám tử của ông quá, gọi
ông là Bỉnh Kế Tùng, tên của nhân vật chính trong các truyện trinh thám của Phạm
Cao Củng. Anh họ tôi nói ông tôi còn hơn Bỉnh Kế Tùng, phải gọi ông là thám tử
Sherlock Holmes của tác giả Arthur Conan Doyle.
Ông ngoại tôi có tánh lạ. Trái cây cúng trên bàn thờ gia
tiên toàn là thứ chọn lọc thiệt ngon. Vậy mà ông ít khi nào cho hạ xuống để ăn
lúc chúng hãy còn ngon. Ông để thật lâu cho đến khi nào da mấy trái xoài nhăn
nheo như da bà cố tôi, trái đu đủ nổi mề đay như một con chố đốm, mấy trái quít
móp méo như xác ướp Ai cập, ông mới cho phép con cháu đem ra làm thịt. Bao lần
tôi thèm ăn trái mãng cầu dai, mỗi ngày đều thăm chừng vói tay bóp thử xem đã mềm
chưa. Thấy nó mềm, tôi thông tin cho ông hay, ông bảo, “Chưa chín rục”. Ngày
xưa còn nhỏ ham ăn, tôi đâu có hiểu là người già răng cỏ lắc lẻo gập ghềnh như
cầu tre cầu khỉ, nên họ chỉ thích ăn thức ăn thật mềm.
Bà ngoại tôi cao lớn hơn chồng, da mặt trắng mịn, nhai trầu
đỏ môi, lúc nào cũng mặc áo dài the. Bà là người đưa tôi đi học lần đầu tiên
nơi nhà một ông giáo già trong làng. Lớp học tại gia nầy được gọi là lớp đồng ấu,
giống như là nhà trẻ vì bọn học trò con nít bốn, năm tuổi chưa đủ tuổi để vào
trường tiểu học công lập. Có đứa còn ị trong quần ngượng quá cứ ngồi ì tại chỗ
khiến thầy giáo ra lệnh bắt khiêng ra ngoài sau nhà xối nước tắm giặt làm cho
cu cậu xấu hổ la khóc tưng bừng! Lớp học chỉ có vài cái băng ghế dài và thấp
làm bàn. Bọn học trò ngồi bẹp dưới đất, vừa đau đít vừa mỏi chân nên cứ phải
luôn luôn nhấp nhỏm chỉ mong được ra chơi để nhổ cỏ cú và nhặt lá bàng cho thầy.
Vào lớp thì thầy dạy đọc các mẫu tự, đại khái như “o tròn như quả trứng gà, ô thì
đội nón, ơ thì mang râu” và bắt học trò học thuộc lòng. Miệng thì ê a i tờ
nhưng mắt thì cứ díp lại và đầu thì gục lên gục xuống.
Bà ngoại tôi khi còn trẻ chắc phải đẹp lắm. Dáng bà cao
sang, tánh tình bình dị và mềm mại, ăn nói dịu dàng, một phong thái có sức thu
hút cảm tình của người khác. Nghĩ đến bà, tôi liên tương đến hình ảnh của một
loài hoa mộc mạc. Tôi chợt nghĩ đến cây bông công chúa trồng trước sân nhà ông
thầy. Một cái tên gọi khác nghe sang cả hơn của loại bông nầy là hoa ngọc lan.
Bông công chúa hay hoa ngọc lan đối với tôi đều nghe hay và đáng yêu cả. Tôi đi
học mà không mang theo bất cứ tập vỡ gì và chưa hề viết một chữ. Mặc kệ, tôi đi
học chỉ để lượm những cánh bông công chúa đã vàng rụng xuống trước sân nhà ông
thầy. Cây bông công chúa rất cao, cành xòe xuống đầy bông trắng bum búp tỏa mùi
thơm ngào ngạt. Đôi khi tôi lượm được một
hai cái bông còn tươi chỉ vừa mới đổi sang mầu ngà ngà. Tôi bọc các bông lượm
được vào một cái khăn tay đem về nhà, cất mấy cái bông vô rương quần áo, cái khăn
không vẫn thơm êm ái nhẹ nhàng. Hơn sáu mươi năm qua rồi, mùi thơm dịu êm đó vẫn
còn thoang thoảng trong trí nhớ tôi hòa lẫn với bóng hình bà ngoại. Đới sống của
tôi bây giờ cũng bình dị như mùi hương dịu dàng của một cánh hoa ngọc lan nhặt
từ dưới đất. Tôi muốn sống như ngoaị tôi vậy.
Nhặt bông công chúa độ vài tháng là tôi đổi trường lớp. Gọi
trường lớp cho oai vậy thôi chứ đây chính là một cái đình cũ trong làng đã từ
lâu thiếu sự tu bổ nên trống trước hở sau. Nhưng đình có nền cao, có tiền sảnh
sáng trưng thoáng mát, dù sao vẫn oai hơn ngôi nhà mái lá. Và đây là bài thơ về
lớp học ở đình:
Lớp Học Ở Ðình
Thuở nhỏ tôi đi học ở đình
Trướng treo cột gụ, tượng oai linh
Mái cao thoáng mát nơi tiền sảnh
Đám trẻ ê a quốc ngữ kinh.
Thầy giáo văn nhân áo
rộng thình
Vui nghèo dạy học
chán phồn vinh
Sống đời đạm bạc thôn
làng mến
Thời gian đếm nhịp tiếng
chày kình.
Đình làng Xuân Thạnh thuở xa xưa
Tôi nhớ tôi ngồi học buổi trưa
Nắng soi lỗ chỗ trên nền mát
Gió gọi lao xao mấy rặng dừa.
Tôi nhớ thầy tôi có cổ
cò
Thân gầy mình hạc cứ
ngồi ho
Thấy tôi cầm viết bằng
tay trái
Thầy vung thước khẻ,
tay tôi co!
Sân trước đình xưa, cỏ mọc đầy
Có con rắn lục vắt trên cây
Tôi phang mảnh ngói vào con rắn
Bị méc, tôi ăn mấy thước dầy.
Trên mái đình cao có
cắc kè
Tiếng kêu của nó, tôi
chán nghe
Dăm ba đá sỏi, tôi
rình chọi
Thầy phạt tôi quỳ giữa
trưa hè.
Ngôi đình tôi học chẳng thọ lâu
Thầy tôi gặp nạn chết bêu đầu
Chiến tranh tàn nhẫn vô tình quá
Tuổi học trò, tôi đã biết sầu.
Viết cầm tay mặt đến
hôm nay
Thước mun tôi nhớ, mắt
tôi cay
Cắc kè, rắn lục,
trong tiềm thức
Đình cũ trường xưa sẽ
chẳng phai.
Thấy tôi không chăm học bằng anh họ tôi, bà ngoại tôi chỉ mấy
đứa trẻ chăn trâu và bảo rằng: "Con mà không gắng học thì sau nầy cũng bị
đi chăn trâu như vậy đó!" Tôi nghĩ trong bụng, "Mấy đứa đi chăn trân
sướng thấy mồ! Khỏi học cực mà chỉ chơi không!" Mà đúng là tôi ham chơi thật.
Không như anh họ tôi hiền ngoan thích quanh quẩn bên ông nội huyên thuyên thắc
mắc hỏi han, tôi khoái theo nghe cậu sáu tôi và một người cậu họ nữa hợp tấu
chơi đàn guitar, banjo, mandoline trong các buổi văn nghệ bỏ túi trong xóm. Tôi
ngồi chầu rìa theo dõi và thán phục tài nghệ của các cậu, rụt rè chỉ dám cầm
hai cái muỗng tay tập đánh nhịp hoặc táy máy khều ngón tay lên giây đàn phát ra
âm thanh êm tai.
Tôi cũng thích phiêu du đi theo làm đệ tử cho cậu tám bắn
chim, câu cá hoặc trèo cây hái trái. Mấy mục giải trí hấp dẫn nầy không bao giờ
thiếu vì vườn nhà ngoại tôi có rất nhiều chim cá và trái cây. Hai cậu cháu tôi
thích tự làm món chim rô ti. Tôi phụ cậu trong công tác nhổ lông chim, chụm củi
và quạt bếp lửa. Làm quen với cà ràng, ông táo lâu ngày, tôi có kinh nghiệm và
trở thành một thứ “water boy” chuyên trị việc nấu nước châm trà, nhất là trong
những dịp cúng giỗ, lễ lạc. Tôi thích ngắm ngọn lửa chụm củi dừa. Mỗi lần tôi
quạt mạnh, những đốm lửa li ti bắn tung lên nhảy múa gây tiếng kêu lách tách
như một màn kết thúc cuộc trình diễn bắn pháo bông. Bếp lửa quê nhà có sức mê
hoặc thôi miên tôi. Tôi có thể ngồi bên bếp lửa giờ này qua giờ khác. Tôi bị
thôi thúc như cái bào thai muốn trở về chốn nguyên thủy ấm áp trong lòng mẹ.
Tôi trải qua những đêm thức khuya đầu tiên trong đời bên bếp lửa. Sự linh động
và biến đổi không ngừng của ngọn lửa ẻo lả uốn éo ôm quanh cái ấm nước có mãnh
lực truyền vào tâm hồn tôi một nỗi êm ả dịu dàng giống như cái cảm giác tôi ôm
bắp chân của mẹ tôi trong giấc ngủ say sưa.
Có những đêm khuya khi cả nhà đang an giấc thì ngoài đường
có tiếng chân người rầm rập, rồi tiếng gõ mõ dừa lốc cốc, tiếng hô “Đả đảo Bảo
Đại! Ủng hộ Hồ Chí Minh!” Sau đó, có tiếng súng từ đồn bót bắn ra vang xa xa. Tất
cả đàn bà trẻ con trong nhà chui xuống hầm. Đàn ông nằm sát người xuống nền nhà
chờ bất trắc. Hầm được đào ngay dưới gầm giường. Muốn chui xuống hầm, người
đang ngủ trên giường cuốn chiếu lại, giở một tấm vạt giường và lật úp chồng lên
tấm còn lại, mở nắp hầm rồi chui xuống. Mặc dù nghe tiếng súng thì sợ, nhưng bọn
trẻ chúng tôi thích chui xuống hầm, xem đó như là một thứ trò chơi. Có khi ngồi
dưới hầm lâu, tôi ngủ quên. Bị kêu dậy lên giường ngủ “cho đàng hoàng” theo lời
người lớn bảo, tôi tiếc cảm giác được an toàn ngồi trong chiếc hầm chật hẹp.
Ngoài đường cái, hai bên tỉnh lộ Mỹ Tho - Gò Công có trồng
me che mát cho mặt đường tráng nhựa. Chính những cây me ven lộ này mà ông bà
ngoại tôi một phen mang họa bị đốt nhà và bị tiêu tán một phần tài sản, phải cất
nhà khác trong khu vườn cách xa mặt lộ mấy trăm thước. Mấy ông du kích Việt
Minh trong làng ban đêm lén cưa một cây me trước nhà ngoại chận lưu thông, mặc
cho ngoại van lạy năn nỉ. Ngày sau quân Việt Pháp đi mở đường bắt gia đình ngoại
phải di tản và đốt hết những ngôi nhà cất gần lộ. Do đó, nhà mới của ngoại nằm
giữa, từ nay có vườn trước, vườn sau.
Vườn trước nhà ngoại trồng nhiều mận, mít, ổi, xoài, khế,
cam, quít, bưởi, mãng cầu xiêm, vú sữa, sa-bô-chê và vài loại cây khác nữa. Vườn
sau trồng dừa. Sân trước sân sau có trồng cau, trầu, chanh, khế, lựu, thanh
long, gừng, sả, ớt và rau đủ loại. Dưới mương thì thả chà nuôi cá, tôm. Bắn
chim, câu cá, leo cây, tắm sông, tôi tha hồ rong chơi cuối trời quên lãng.
Cậu tôi dạy tôi bơi bằng cách ban đầu cho tôi ôm một cái
phao bằng bẹ lá dừa khô dùng chân đập nước; kế đến vịn tay cậu và bơi bằng một
tay; sau cùng buông tôi ra cho tôi bơi một mình. Dĩ nhiên là sau những buổi tập
bơi đó, tôi không cần phải ăn cơm nhiều vì đã uống nước sông no óc ách. Cậu tôi
còn bày thêm cái trò chơi chọi sình (mà bạn gọi là ném bùn). Các chính khách Ấu
Tây lâu lâu chỉ bị ném bánh bánh kem vào mặt, lỡ lọt vào miệng và nuốt cũng
ngon. Tôi chơi chọi sình dơ nên bị ăn sình đều đều. Sình vào miệng, vào mũi,
tôi không ngại. Sình vào tai mấy ngày sau vẫn còn lùng bùng; sình vào mắt làm mắt
đỏ nổi đầy gân máu như mắt quỉ Dracula.
Chưa hết, thầy trò tôi còn chơi một màn “stunt” độc địa: phá
ổ ong vò vẽ. Ổ ong vò vẻ trên cây sa-kê bự tổ chảng ở cuối vườn sau, sát ranh với
vườn nhà khác. Cậu bảo, “Ổ nầy chắc là có ong non nhiều lắm, chiên bánh xèo cả
nhà ăn không hết!” Xong cậu kêu tôi núp dưới một tàu chuối thấp, trong khi cậu
lượm đất sét chọi ổ ong. Ban đầu ổ ong chỉ bị lủng mấy lỗ, ong bay ra chưa nhiều
và chúng cũng chỉ bay quanh quẩn ổ. Đến chừng ổ ong bị vỡ một mảng lớn rơi xuống
đất, ong mới bay loạn xạ, chích cho tôi mấy mũi đau thấu óc. Hình ảnh mấy cái
bánh xèo béo ngậy và thơm lừng biến đâu mất, tôi ôm đầu chạy giữa lúc đoàn phi
cơ F-18 Hornets tí hon đuổi theo bén gót. Tôi về trùm mền đi ngủ sớm, bỏ bữa ăn
chiều.
Cậu tám tôi không chết vì bị ong chích nhưng sau đó chết vì
biến chứng của bịnh tim mãn tính khi chưa đầy hai mươi tuổi. Người nhà bịt tang
cho tôi và sắp xếp cho tôi đi ngay kế chiếc quan tài của cậu. Tôi mất cậu như mất
một bậc huynh trưởng, người đã hướng dẫn tôi, chỉ dạy tôi học hỏi nhiều kinh
nghiệm sống ở thôn làng như là một công tử miệt vườn.
Dì năm tôi lấy chồng, năm sau sinh nở đứa con đầu lòng bị trục
trặc, chết oan uổng cùng với cái bào thai. Dượng năm tôi đáng kính phục thay;
người vẫn tiếp tục duy trì mối liên lạc hiếu thảo với gia đình bên vợ chẳng
khác nào như khi vợ còn sống. Dượng là một tay nghề trồng dưa hấu và cà chua nổi
tiếng thành công trong vùng nhờ đầu óc thích tìm tòi học hỏi và biết áp dụng
phương thức canh tác theo khoa học.
Cậu sáu tôi lớn hơn tôi đúng một con giáp, lên Saigon học
nghề nhiếp ảnh, về mở hiệu ảnh Anh Đào trên đường Thủ Khoa Huân của tỉnh lỵ
châu thành Mỹ Tho, sống một cuộc đời công tử hào phóng và chết trong một tai nạn
lưu thông lúc chưa đầy sáu mươi tuổi. Cậu là người tài trợ công trình tân trang
ngôi nhà tôi chào đời, mở rộng con đường cho xe hơi có thể chạy vào tận trước
nhà, trùng tu nghĩa trang riêng của dòng họ.
Cậu ba tôi tên là Nhàn, nhưng cái tên đó lại mâu thuẫn trái
ngược với con người hết sức cần cù và vất vả của cậu. Không cần cù vất vả cũng
không xong, vì cậu có đến những mười ba người con. Sau khi cưới vợ, cậu ba đã
chọn tên trước để đặt cho con. Cậu chọn nguyên một câu dài mười bốn chữ là
Trung Hiếu Lưỡng Toàn, Quốc Gia Hưng Thịnh, Thái Bình An Cư Lạc Nghiệp. Tội
nghiệp cho mợ ba tôi; mợ sanh con không kịp, chưa đạt được chỉ tiêu mà cậu tôi đã
đề ra, mới sanh đến đứa thứ mười ba tên Lạc thì... tắt kinh. Tất cả mười ba người
con của cậu mợ đều khỏe mạnh khôn lớn trưởng thành. Lạ một điều là, dù cậu mợ
suốt đời làm việc tận tụy vất vả, sức khỏe của hai người vẫn bình thường ở tuổi
quá tám mươi, hiện tại vẫn sống nơi ngôi nhà tôi chào đời.
Mùa tựu trường năm 1950, tôi đủ tuổi vào học lớp năm trường
làng, tức lớp một ngày nay. Học trò nam mặc đồng phục áo trắng tay ngắn, quần cụt
đen. Học trò nữ quần dài. Tôi có đầy đủ học cụ như cặp đệm đan bằng giây lát xếp
đôi lại được, một bình mực tím, một cây bút cán bằng gỗ ngòi kim loại thay được,
một cây bút chì, một cục tẩy, giấy thấm, tập vở một trăm trang giấy trắng có kẽ
hàng. Tất cả học trò toàn đi chân đất. Trường cách xa nhà cả cây số, lội bộ mỗi
ngày lâu dần tôi đâm chán.
Một hôm tôi đánh bạo đu xe ngựa. Đu xe ngựa là một trò chơi
nguy hiểm. Sau xe ngựa có một tấm bửng, là cái nấc thang để bước lên xe. Chờ
cho xe sắp chạy, tôi leo đứng lên tấm bửng và thụp đầu xuống cho người phu xe
khỏi thấy. Tôi định bụng chờ đến khi nào xe sắp ngừng, tôi sẽ nhảy xuống, vì
tôi đinh ninh sẽ có hành khách nào đó xuống xe khoảng gần lối vào nhà ngoại
tôi. Nhưng xui làm sao, không có hành khách nào xuống lối đó cả. Xe ngựa chạy
đã qua khỏi lối vào nhà tôi và vẫn tiếp tục phóng bon bon trên đường tráng nhựa.
Tôi hoảng quá mà không dám kêu người đánh xe dừng lại. Tôi liều nhảy đại xuống,
nhưng vì không biết lựa thế nhảy xuống cho đúng cách, tôi ngả té xuống, đập ngửa
đầu xuống mặt lộ nghe một cái bốp nổi đom đóm mắt. Từ đó trở đi và mãi cho đến
ngày nay, tôi bị chứng nhức đầu kinh niên, mỗi năm xảy ra mấy lần, lần nào cũng
nằm liệt giường không ăn không uống mấy hôm liền, thật là một cực hình khổ sơ
vô cùng.
Một trong những cơn tấn công đầu tiên của bịnh nhức đầu quái
ác đó xảy ra đúng ba ngày Tết. Tôi nằm một mình hiu quạnh trong buồng, không ngồi
dậy được mà cũng không ngủ được cho khỏi phải nghe bọn trẻ đồng lứa trong nhà
nói cười vui vẻ, mừng tuổi người lớn, được tiền lì xì, đốt pháo inh ỏi và chơi
bầu cua cá cọp sôi nổi xôn xao. Đầu tôi nặng như bưng, miệng khô đắng, bụng trống
rỗng vì đã ói mửa ra đến mật xanh mật vàng. Những người yêu thương tôi nhất là
mẹ tôi, bà ngoại tôi và dì bảy tôi. Mẹ tôi rảnh tay làm việc là vào ngồi bên
tôi, hỏi han, an ủi tôi, đặt bàn tay âu yếm lên trán tôi, ban tặng cho tôi một
tia nhìn trìu mến yêu thương. Bà ngoại tôi đem cho tôi một cục đường phèn để
khi nào tôi cảm thấy lạt miệng thì cắn ngậm một miếng. Khi thấy tôi đã bớt bịnh
và biết đói, bà khuấy bột mì tinh cho tôi ăn. Dì bảy tôi thì cho tôi tiền lì xì
thật nhiều hơn mấy đứa cháu khác trong nhà, để dành bánh mứt riêng cho tôi.
Một tai nạn khác nữa xảy đến với tôi trong những năm sống
nơi nhà ngoại. Tôi leo lên một đống củi dừa cao rồi nhảy xuống khi chơi trò
đánh kiếm đấu gươm với chúng bạn. Tôi bị lọi xương cánh tay; khuỷu tay sưng vù,
đau nhức rất khó chịu. Ông ngoại tôi gọi mời thầy thuốc Bắc đến sửa gân, nhưng
qua mấy ngày sau, tay tôi vẫn chưa bớt đau. Bà ngoại tôi phải đưa tôi lên tỉnh
lỵ châu thành Mỹ Tho để đi nhà thương băng bột. Và đó cũng là lần đầu tiên
trong đời tôi lên tỉnh thành, được đi xe xích lô, được biết nhà thương lớn như
thế nào, và được ăn hủ tiếu Mỹ Tho ở tiệm Phánh Ký nổi tiếng nằm ngay dưới dốc
Cầu Quây. Sau nầy, cứ mỗi lần có dịp về lại Mỹ Tho thăm bà con, tôi đều ghé vào
tiệm Phánh Ký ăn một tô hủ tiếu cho kỳ được, tính ra cũng hai mươi năm làm người
khách hàng trung thành cho tiệm đó. Di tích của lần té lọi tay đó là cánh tay mặt
cán dá suốt đời.
Khi tôi đã biết viết, mẹ tôi bảo tôi viết thư thăm ba. Tôi
chẳng biết viết gì; mẹ gà ý gà chữ cho tôi. Mẹ muốn có sự riêng tư và nhất là
chỉ rảnh rang buổi tối trước khi đi ngủ, cho nên các buổi viết thư xảy ra dưới
ngọn đèn dầu và bàn viết là một cái rương sắt đựng quần áo. Tôi ngồi trên một
cái ghế thấp, khòm lưng gò từng chữ: “Long Bình Điền, ngày . tháng . năm .”.
Tôi chỉ viết mấy giòng, đại khái như con học giỏi được thầy giáo khen, con nhớ
ba lắm, con thương ba nhiều, xong đến phiên mẹ viết.
Sau đó vài năm, tôi giã từ ngôi nhà chào đời, cùng mẹ và em
lên Saigon đoàn tụ với cha tôi. Tôi chỉ còn về lại trong những tháng hè, thỏa
thuê vui đùa với các anh chị họ, với trái cây ngon ngọt, đi ra đồng săn ếch, bắt
cua, câu cá, tắm sông, đọc tiểu thuyết, hát ca. May mắn cho tôi có được một
làng quê tương đối bình yên để tôi hằng năm có nhiều dịp trở về thăm lại cho đến
khi miền Nam sụp đổ.
Ngôi nhà tôi chào đời giống như là một nơi qui tụ của các vị
thiên thần. Tôi là một cục đất sét được nặn nên người bằng tình thương yêu. Mẹ
tôi, ông bà ngoại tôi, các cậu, mợ, dì tôi là những vì tiên nhân hậu ban tặng
cho tôi một món quà quí giá nhất trên đời. Đó là tình thương yêu. Sau khi rời
khỏi khung trời hoa mộng thần tiên đó để lên thành phố và lao theo sự nhồi xốc
của guồng máy cuộc đời cho đến ngày nay, tôi nhìn lại và kinh ngạc thấy rằng
không ai trong số những thiên thần đó bị cuốn theo cơn lốc vật chất phồn vinh.
Họ vẫn là họ, đầy ắp tấm lòng chân thật và tình thương yêu. Ông ngoại, bà ngoại,
dì năm, cậu sáu, cậu tám tôi đã mất. Không, họ chỉ từ trong nhà bước ra nằm yên
nghỉ trong mảnh vườn gần gốc những cây bưởi, cây vú sữa, cây mận hồng đào. Cha
tôi may mắn được cùng nằm trong mảnh đất bình an và hạnh phúc nơi quê vợ của xã
Bình Hạnh, làng Long Bình Điền. Cậu mợ ba, mẹ tôi, dì bảy, ngần ấy vị tiên sót
lại của một tầng lớp thế hệ hưng phế, sống sót như những chứng tích tàn phai,
như những trang cổ sử . Nếu tôi không khơi bếp lửa thổi bừng lên đốm than hồng,
không ngồi xuống chăm chú hồi tưởng các dữ kiện tiềm ẩn trong ký ức, không đọc
thư mẹ, không nằm mơ nghe chuyện kể lể qua ngụm nước trà chiêu môi móm mém của
các bậc trưởng thượng đó, thì ngôi nhà tôi chào đời một ngày nào cũng sẽ tan biến
vào quên lãng của thời gian. Tôi cám ơn họ đã cho tôi một ngôi nhà chào đời.../.
No comments:
Post a Comment