Sài Gòn Ngày Tháng Cũ
|
Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi, Sài Gòn ơi! Bài nhạc của Y Vân. Tôi đoán ông cảm tác nó khi di cư vào tới thủ
đô của miền Nam. Ông viết bài nhạc bằng cảm nghĩ chân thật của một người lần
đầu tiên đặt chân tới Sài Gòn hoa lệ. Ông ghi lại vào ký ức vài hình ảnh bắt
mắt: một chiều nắng chưa phai với muôn tà áo tung bay, dĩ nhiên là của phái nữ,
phố xá thênh thang nhộn nhịp ngựa xe như nước áo quần như nêm. Một nếp sống vui
tươi chào đón người di dân mới. Y Vân đã nói giùm cho hằng triệu người di dân
khác đến Sài Gòn từ khắp nẻo đường đất nước. Thi sĩ Bàng Bá Lân vừa vào Sài Gòn
cũng yêu thích tâm tình và nếp sống của người Sài Gòn và cảnh đẹp miền Nam ngay
qua nhiều bài thơ của ông, trong đó có những câu như: Yêu xe thổ mộ xôn xao,
Trên đường khúc khuỷu đi vào miền quê; hoặc: Tôi yêu nắng lóa châu
thành, Trận mưa ngắn ngủi, gió lành hiu hiu.
Thật vậy, Sài Gòn chợt nắng chợt mưa, phố
phường lúc bấy giờ nhộn nhịp với tiếng vó ngựa lóc cóc trên mặt đường nhựa của
những chuyến xe thổ mộ có sàn xe lót chiếu chạy các tuyến lộ trình Sài Gòn ra
khắp các vùng ngoại ô. Sài Gòn thanh lịch một thuở thanh bình là nơi dân cả
nước ước ao ít ra thăm viếng một lần nếu được thì ở luôn lập nghiệp. Tôi cũng
là dân di cư trong khoảng thời điểm đó. Di dân đến từ miền Bắc, miền Trung, và
họ cũng đến từ đồng bằng sông Cửu long như câu hát Anh từ đồng quê đến; Tôi
từ miền cát lên.
Sài Gòn đẹp lắm! Đúng
hay sai? Đẹp hay xấu là tùy theo quan niệm riêng của mỗi người, một câu nghe hoài. Hình ảnh đứa con bao
giờ cũng đẹp trong lòng một người mẹ, một câu khác nữa. Nhưng đối
với đa số thi nhạc sĩ đã từng gắn bó với Sài Gòn, họ ưa thích xem Sài Gòn như
người tình hơn, vì chỉ có yêu người tình mới đê mê, thắm thiết, mãnh liệt, nồng
nàn, da diết, lâu dài, suốt cả cuộc đời. Họ thích gọi Sài Gòn bằng một tiếng
"em" rung cảm.
Tôi chết nhát, không dám gọi Sài Gòn bằng
em. Tôi sợ các vong hồn tiền nhân Sài Gòn vặn cổ. Họ là những nhà tiên phong
khai phá từ xứ Quảng miền Trung gồm các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức
(Thừa Thiên), Quảng Nam, Quảng Ngãi vào đây lập nghiệp dưới thời các chúa
Nguyễn từ đầu thế kỷ thứ mười tám; hoặc là những thuyền nhân người Minh hương
(vì thế mới bị gọi là Ba Tàu) đến từ hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung
Hoa (cũng lại Quảng nữa!). Họ là những Ông Lãnh, Bà Chiểu, Thị Nghè, Đỗ Hữu
Phương, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trịnh Hoài Đức, Hui Bòn Hỏa,Nguyễn An
Ninh, Lê Quang Định, Võ Tánh, Trương Tấn Bưu, Võ Di Nguy, Cha Cả Bá-Đa-Lộc,
v.v.
Vong hồn tiền nhân Sài Gòn linh thiêng nhứt
là Lê văn Duyệt. Nếu ông không linh thiêng thì tại sao người dân Sài Gòn xây
lăng mộ ông lớn nhất, tôn thờ ông như một vị thần và hằng năm cúng lễ ông đông
nhất để khấn nguyện xin ông phù hộ. Nếu bạn dám vỗ ngực tự hào xưng là dân Sài
Gòn thứ thiệt thì ít nhứt một lần bạn phải đến viếng thăm lăng Tả Quân Lê Văn
Duyệt vào một ngày đầu năm để hái lộc, để bị khói nhang xông cay chảy nước mắt
trong lúc chờ người yêu làm một quẻ bói xăm. "Lăng Ông", "Vườn
Ông Thượng", không cần phải kể tên, người ta cũng biết "ông" là
ai. Cái oai, cái vía của ông vẫn còn tồn tại mãi mãi trong lòng người dân Sài
Gòn và đã trở thành bất tử, mặc dầu ông mất từ lâu lắm, năm 1832. Tuy Sài Gòn
ngày nay bị đổi tên, nhưng đối với người dân Sài Gòn, làm sao ông Hồ Chí Minh
được tôn kính bằng ông Lê Văn Duyệt. Là Tổng trấn thành Gia Định dưới triều vua
Minh Mạng, dưới trướng còn có đứa con nuôi Lê văn Khôi gốc người Nùng dũng
mãnh, còn có ông Hoành, ông Trấm hầu cận, Lê văn Duyệt tỏ ra là một nhà hành
chánh giỏi tài tổ chức và quản trị, có đủ uy danh và đức độ, ai ai cũng nể vì,
kể cả mấy ông vua Cao-Miên thuở đó.
Với cây gươm Thượng-phương-kiếm của vua trao
cho quyền tiền trảm hậu tấu, ông thẳng tay chém đầu kẻ tội, dù người đó là
Huỳnh Công Lý, cha vợ của vua, ông cũng không tha. Ông có công lớn trong việc
mở mang bờ cõi, xây dựng và phát triển Sài Gòn. Trong khi triều đình Huế khắc
khe áp dụng chính sách bài ngoại và bế môn tỏa cảng, ông đón nhận di dân nước
ngoài, khuyến khích thương mãi và giao dịch, một mặt duy trì an ninh trật tự xã
hội. Ông đáng được gọi là Người Sài Gòn Số Một. Sài Gòn thu hút dân tứ xứ đến
sinh cơ lập nghiệp kể từ đó và tiếp tục phát triển.
Nhưng danh hiệu Hòn Ngọc Viễn Đông - Le Perle
de l'Extrême Orient, The Pearl of the Far East - mà Sài Gòn có được vào đầu
bán thế kỷ hai mươi phải nhìn nhận là do công của người Pháp. Sau khi toàn cõi
miền Nam đã trở thành thuộc địa của Pháp vào năm 1859, người Pháp muốn đặt nền
móng hành chánh lâu dài nên ra sức canh tân thành phố Sài Gòn, thiết kế đô thị
theo kiểu mẫu kiến trúc Âu châu trong suốt 80 năm cho đến trước khi Đệ Nhị Thế
Chiến. Sài Gòn thu hút đầu tư của giới kinh doanh kỹ nghệ Pháp cùng với sự đóng
góp của kiều dân gốc Hoa, Ấn, Tây Ban Nha, Ý Đại Lợi, Ái Nhĩ Lan, Mã Lai, và
nhiều nước khác nữa. Sau khi thực dân Pháp hoàn toàn rút chân ra khỏi Việt Nam
vào năm 1954, nhiều công ty tư nhân của Pháp vẫn còn tiếp tục làm ăn ơ Sài Gòn:
Denis Frères, Mitchelin, B.G.I., Mélia, Bastos, v.v.
Tuy cách xa bờ biển gần một trăm cây số
nhưng Sài Gòn được xem như là một hải cảng có nhiều ưu điểm chiến lược và lý
tưởng vì mọi tàu bè viễn dương thời đó đều vào được. Sài Gòn cũng mang đầy đủ
đặc tính tiêu biểu của những thành phố cảng khác trên thế giới như Marseille,
New Orleans, Montreal, Thượng Hải; là nơi dân giang hồ tứ chiến dừng chân. Họ
thuộc đủ mọi thành phần, từ những bậc vương tôn công tử lắm bạc tiền cho đến
những tay anh chị khét tiếng thuộc xã hội đen, những con buôn thủ đoạn nắm bắt
thời cơ làm giàu, ăn chơi hưởng thụ, thích ứng và hài lòng với đời sống mới,
xin chọn Sài Gòn làm quê hương và gởi nắm xương tàn nơi đó.
Hơn ba mươi năm qua rồi, tôi chưa nhìn thấy
lại Sài Gòn; khoảng thời gian dài cách trở giữa tôi với thành phố mà nơi đó,
tôi đã trải qua lứa tuổi hoa niên thơ mộng và đáng nhớ nhất của cuộc đời mình.
Ba mươi ba năm, một nửa phần đời đã qua, dài hơn phần đời còn lại. Ba mươi ba
năm sống trên xứ lạ, tâm tư thật nhiều nhớ nhung, vọng tưởng, thật nhiều hồi ức
và hoài niệm về thành phố thân yêu đó. Ba mươi năm năm dõi mắt hướng về, lắng
tai ngóng đợi, cố thu thập mọi diễn tiến xảy ra nơi vùng đất cũ, nơi đã in dấu
biết bao kỷ niệm vui buồn.
***
Tôi bước chân đến thành đô Sài Gòn lần đầu
tiên vào mùa bãi trường và nghỉ hè năm 1950, khi quái kiệt Trần Văn Trạch hay
hát Con chim hòa bình đang đau nặng, Ngày và đêm càng thêm lo lắng.
Thằng bé nhà quê sáu tuổi như bị thôi miên trước Sài Gòn hoa lệ, rực rỡ ánh
đèn, dập dìu xe cộ. như đi lạc vào trong một thế giới mới lạ của chuyện thần
tiên.
Phố xá thênh thang đón chân tôi đến chung
vui.
Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi, Sài Gòn ơi!
Suốt mấy tháng cuối hè năm ấy, tôi mải mê
tiếp nhận những kinh nghiệm mới mẻ, đẹp đẽ và hấp dẫn đầy những hình ảnh và âm
thanh quyến rũ, quyến rũ đến nỗi tôi quên cả nhớ nhà, nhớ bà ngoại, nhớ mẹ và
đứa em nhỏ. Quyến rũ đến nỗi ba tháng trôi qua một cái vèo, và đã đến lúc tôi
phải từ giã Sài Gòn lần đầu tiên trong bịn rịn luyến tiếc. Không luyến tiếc làm
sao được khi tôi đã được tiếp đãi như một hoàng tử bé trong suốt quãng thời
gian đó. Tôi chỉ có vui chơi, dạo xem các thắng cảnh của thành phố, ăn ngon mặc
đẹp, và tham dự vào những thú tiêu khiển giải trí thời thượng của cả người lớn
nữa.
Ðại lộ Nguyễn Huệ, thập niên 1960.
Lúc bấy giờ tôi chưa hiểu lý do tại sao tôi
lại được cha tôi cưng chiều như vậy và tôi cũng chẳng cần đi tìm một sự giải
thích. Mãi về sau, khi đã trưởng thành thêm, tôi mới chứng ngộ được đầu đuôi sự
việc. Tôi xin kể sau đây.
Vì lý do an ninh và kinh tế, cha tôi một
mình rời quê Mỹ Tho lên Sài Gòn tìm công ăn việc làm, trong khi mẹ tôi và anh
em tôi ỏ lại quê ngoại. Ông tìm được việc ngay, thư ký kế toán cho Nhà Đèn Chợ
Quán, tức nhà máy điện của đô thành. Thỉnh thoảng ông đáp chuyến xe lửa Sài
Gòn-Mỹ Tho (dài bảy mươi hai cây số, mất hai tiếng rưỡi đồng hồ) về quê thăm
gia đình, mang theo nhiều quà cáp cho tất cả mọi người trong nhà, thường là các
loại kẹo bánh Pháp như chocolat Nestlé ổ chim, bánh hộp Biscuit, Lu, bơ Bretel,
fromage La Vache Qui Rit Con Bò Cười. Hè năm đó, ông không về mà chỉ nhắn tin
gọi tôi lên thăm ông. Ông thu xếp với một người quen làm tài xế xe hàng chở dừa
cho tôi quá giang lên Sài Gòn, xong ông đến vựa bán dừa của người quen ơ Chợ
Cầu Muối đường Kitchener (sau nầy là đường Nguyễn Thái Học) đón tôi về nhà trọ
ở khu Nancy (Chợ Quán).
Đó là lần đầu tiên tôi đi xe điện chạy tuyến
đường Sài Gòn-Chợ Lớn dài sáu cây số và cũng là tuyến đường xe điện độc nhất
của thành phố Sài Gòn. Sau khi đã định cư ở xứ cờ lá phong, trong mấy năm cuối
của thập niên 70, tôi đi làm mỗi ngày trên đường Queen St., thành phố Toronto,
cũng bằng xe điện streetcar, y như những năm xưa lắc xưa lơ thuở đó ở
Sài Gòn.
Về đến nhà trọ, cha tôi giới thiệu tôi với
một phụ nữ trẻ khoảng độ hai mươi tuổi, bảo tôi gọi là Dì Ngân. Dì Ngân là
người thành phố, tuy không đẹp lắm nhưng tánh tình dan dĩ, tự nhiên, tự tin,
hoạt bát, vui vẻ. Dì gọi tôi bằng con nghe ngọt xớt, xoa đầu tôi, cặp cổ tôi,
bẹo má tôi, xem tôi như một món đồ chơi. Dì chăm sóc tôi chu đáo, mua sắm quần
áo, giầy dép mới cho tôi. Dì nấu ăn khéo, làm cơm ngon, mua thức ăn đắt tiền
như tôm càng rim, thịt bò xào dưa cải, canh nấm đông cô.
Dì Ngân có một người chị làm đào cải lương
đoàn hát Hoa Sen của Bảy Cao, cứ vài ba đêm lại dắt tôi đi coi cải lương ở rạp
hát Nguyễn văn Hảo trên đại lộ Galliéni (Trần Hưng Đạo). Vãng hát, cha tôi và
dì Ngân còn dắt tôi đi ăn "xíu dề", cữ ăn khuya theo thói quen của
người Tàu Chợ Lớn, ở "La-Cai" (Lacaze, tức đường Nguyễn Tri Phương),
thường là món cháo hoa ăn kèm hột vịt muối hoặc hột vịt bắc thảo ở một quán
người Tàu, rồi mới về nhà. Những ngày cận Tết Trung Thu, tôi được dắt vô Chợ
Lớn dạo phố, mua bánh, mua đèn.
Cuối tuần, cha và dì dắt tôi đi dạo vườn
Bờ-Rô (do chữ Pháp "pelouse", sân cỏ, theo như sự giải thích
của nhà văn Sơn Nam trong quyển bút ký Người Sài Gòn), tức Vườn Tao Đàn,
coi người ta chơi boules (học giả Vương Hồng Sển trong tác phẩm Sài
Gòn Năm Xưa gọi môn chơi thể thao nầy là "quần lăn"), một trò
chơi thảy những trái banh bằng sắt cỡ vừa lòng bàn tay. Lúc khác nữa, tôi được
dắt đi bát phố Catinat, Charner, Bonard (các đường Tự Do, Nguyễn Huệ, Lê Lợi
sau nầy), xem phòng trưng bày xe hơi ô tô có các hiệu Citroen, Peugeot,
Traction, xem xi-nê, ăn kem, mua bánh kẹo Pháp (Thật không ngờ năm mươi năm
sau, ngày nay tôi vẫn còn mua fromage hiệu La Vache Qui Rit ở siêu thị
ăn lai rai với bánh mì baguette).
Còn nữa, tôi được dẫn vô khu giải trí Đại
Thế Giới trong Chợ Lớn, Kim Chung ở Sài Gòn coi thiên hạ cờ bạc, trường đua Phú
Thọ coi đua ngựa và coi thiên hạ đánh cá ngựa, người nào thua cháy túi thì coi
như bị ngựa đá. Một tình yêu mến như lời hát câu ca. Để lòng thương nhớ bao
ngày vắng nơi xa. Sống mãi trong tôi, bóng hôm nay sẽ không phai. Sài Gòn đẹp
lắm, Sài Gòn ơi, Sài Gòn ơi.
Sài Gòn một thời được tặng cho danh xưng Hòn
Ngọc Viễn Đông kể cũng không ngoa. Tuy Sài Gòn không đồ sộ bằng những thành phố
lớn ở Bắc Mỹ, không cổ kính bằng những thành phố ở Âu Châu, nhưng Sài Gòn duyên
dáng mỹ miều với những con đường rợp bóng cây, những công trường ngả năm, ngả
sáu, ngả bảy đầm ấm nhộn nhịp, những dinh thự, phố xá và nhà ốc có nét kiến
trúc yêu kiều. Sài Gòn có một nền kinh tế phồn thịnh, nằm sát vựa lúa trù phú
miền đồng bằng sông Cửu Long. Bến cảng Sài Gòn có hải xưởng bảo trì và chỉnh
trang tàu bè, là cửa ngõ mậu dịch với thế giới, là trạm tiếp vận cho hai nước
Cao Miên và Lào. Tuyến đường hỏa xa dự định nối liền Sài Gòn-Nam Vang chỉ mới
thực hiện đoạn đầu đến Mỹ Tho đã phải bị đình chỉ khi sự vận chuyển bằng xe
hàng dễ khả thi hơn và đường hàng không lần lượt phát triển mạnh mẽ. Tâm tình
người Sài Gòn xề xòa, không quá bon chen đua đòi, có làm có ăn, cầu vừa đủ xài
và luôn luôn mở rộng tấm lòng đón nhận dân mới đến.
Sau khi đã trở lại làng quê Long Bình Điền,
quận Chợ Gạo để bắt đầu năm học mới, tôi tỉnh bơ nói ra cảm nghĩ thật của mình
về cha tôi, về cô tình nhân của ông là dì Ngân, về những ngày vui của tôi ơ Sài
Gòn. Tôi nào biết điều đó đã làm cho mẹ tôi, ngoại tôi buồn lòng rất nhiều. Mỹ
Tho cách Sài Gòn chỉ có 72 cây số, sự giao-thông thuận tiện, có xe lửa, xe đò,
xe lô chạy suốt ngày, tuy gần mà xa. Hèn chi tôi hay nghe cha tôi ngâm nga mấy
câu thơ: Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy, Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa.
Viết thơ thăm hết nội nhà, Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em. Hoặc: Mười
giờ tàu lại Bến Thành, Xúp-lê vội thổi, bộ hành xôn xao. Tôi cũng hay nghe
mấy câu hát ru con Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ, Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn
lu. Anh về anh học chữ nhu, Chín trăng em đợi, mười thu em chờ. Học chữ
nhu, phải chăng ý nói hiền bớt lại, đừng nóng nảy cộc cằn, đừng mắng chửi em,
đừng bạt tai em; hay chữ nhu do "chữ nho" nói trại ra, điều nầy hoàn
toàn tôi không được rõ.
Tôi lên Sài Gòn lần thứ nhì để định cư luôn
vào cuối năm 1953 cùng với mẹ và em tôi. Tôi định khoe với đứa em trai chiếc xe
điện chạy trên đường rầy, ở trên mui có cái đuôi dài móc dính lên giây điện,
mỗi lần xe chạy, cái đuôi xẹt ra ánh sáng nghe lạch tạch. Nhưng xe điện đã bị
dẹp mất tiêu! Cha tôi mua một căn nhà trong hẽm 192 đường Đề Thám cho gia đình
ở, đồng thời vẫn duy trì "phòng nhì" với dì Ngân trong khu Nancy. Lúc
ấy cha tôi bắt đầu làm việc cho ngân hàng Banque Franco-Indochinoise trên đường
La Somme, đại-lộ Hàm Nghi; ông có sắm một chiếc xe Mobilette để đi làm mỗi ngày
ở Chợ Cũ. Sau đó khá giả hơn nhờ có cao trào chuyển ngân qua Pháp, cha tôi sắm
một chiếc xe hơi hiệu Fiat của Ý để đi chơi xa, về quê Mỹ Tho hái mận hồng đào,
đi tắm suối Trị An ăn canh chua lá vang, tắm biển Gò Công ăn gột vịt lộn, biển
Vũng Tàu, Long Hải, đi Đà Lạt đồi thông, Nha Trang cát trắng, Ban-Mê-Thuột đất
đỏ.
Xóm 192 Đề Thám là một xóm lao động, đa số
dân cư trong xóm là phu phen, thợ thuyền, bạn hàng buôn bán lẻ. Cha tôi nằm
trong thiểu số có ít vốn liếng chữ nghĩa, đi làm mặc áo sơ-mi trắng, ôm
cặp-táp, nên được lối xóm kêu bằng thầy Tư, vì mẹ tôi thứ tư. Nhà trong xóm là
nhà dãy san sát nhau, trệt, lầu lẫn lộn, có một vài gia đình người Tàu sống hòa
thuận với chòm xóm người Việt.
Xóm lao động dĩ nhiên là đông đúc và ồn ào,
suốt ngày nghe đủ loại những tiếng rao hàng. Một ông Tàu không rành rẽ tiếng
Việt, đầu đội một cái nia lớn, vai đeo khung chân ghế xếp cất tiếng rao:"Bánh
bò bánh tiêu bánh bò. Dầu-chá-quải bánh bò . Bánh bò lá dứa nước dừa. Mại dô
mại dô." Một ông Tàu khác gánh cần-xé đi mua đồ lạc-xon rao:"Ve
chai. Ai có xon nhôm nồi đồng hư bể bán hôn." Một ông Tàu khác mặc áo
có nhiều túi rộng phình, đi tay không rao:"Vàng vụn bạc vụn bán hôn.
Răng vàng hư, đồng hồ bể bán hôn".
Có ông gánh nồi nước bốc khói, tiết kiệm lời
rao, hoặc ngượng nói tiếng Việt không rành, chỉ lắc một cái trống nhỏ nghe lung
tung, người ta cũng biết ngay đó là ông thợ nhuộm. Ông mài dao thì quơ một xâu
dài có nhiều miếng sắt móc dính với nhau; khi quơ phát ra tiếng kêu reng rẻng.
Hai cha con ông bán mì thì chỉ cần gõ thanh gỗ "cắc cụp". Vui nhất là
ông Tàu bán thuốc trừ gián, chí, rệp:"Thuốc chí trừ chí, thuốc rệp trừ
rệp". Một lần người ta hỏi mua một gói thuốc trừ rệp, ông Tàu lục túi
dết kiếm một hồi rồi lấy đưa ra. Người mua thắc mắc, "Sao tui mua thuốc
rệp mà ông đưa thuốc chí?", ông Tàu đáp tỉnh bơ:"Thuốc chí chừ
dệp cũng lược mà.. hầy lớ!"
Người Việt bán hàng rong ít khi di chuyển mà
chỉ thích quây quần lại một chỗ nhất định ơ đầu hẽm, trước trường học, trước
rạp hát, là những nơi có đông người qua lại. Số người đi dạo vào tận xóm trong
qua từng nhà có một chị bán chè với tiếng rao trong trẻo lảnh lót Ai ăn chè
bột khoai nước dừa đường cát hôn…. nghe êm tai vô cùng. Ngoài ra còn có một
chị bán sương sa hột lựu, một bà xỏ lỗ tai, một bà cắt lể, một ông vác hơi, một
ông đấm bóp và mấy chú nhỏ bán cà-rem cây mang trên vai cái bình thủy nặng nề.
Một cây cà-rem béo ngon lúc bấy giờ giá chỉ có năm cắc bạc và một tô hủ tiếu
hai đồng.
Những người bán dạo nầy dần dần giải nghệ
hoặc cải tiến theo thời gian, theo sự biến đổi của luật tuần hoàn và theo sự
đào thải của luật cung cầu. Hằng ngày, tôi đi học ở trường tư thục Tiên Long,
đường Cô Bắc cho đến hết lớp Đệ Tứ; sau đó học tiếp các lớp đệ tam, nhị, nhất
trường Hưng Đạo của thầy Nguyễn văn Phú (Cống Quỳnh), trường Trường Sơn của
thầy Nguyễn Sỹ Tế (Lê văn Duyệt), trường dạy Anh-ngữ của thầy Trần Việt Anh
(Đinh Tiên Hoàng, Đakao). Tôi đi học ở Sài Gòn trong mười một năm liền, rớt tú
tài một mấy keo, tú tài hai thêm mấy keo nữa vì ham mê văn nghệ hơn là ham học
các môn toán, lý hóa, vạn vật. Sư tổ chuyên trị thi rớt là Trần Tế Xương
(1869-1907) thi hương tám lần mà vẫn rớt có phán rằng Mai không tên tớ, tớ
đi ngay. Giỗ tết từ đây nhớ lấy ngày.
Tội nghiệp ông tú Vị Xuyên sinh bất phùng
thời, có bằng tú tài mà không có Trường Võ Bị Thủ Đức để mà kiếm cái lon chuẩn
úy le lói chơi, đành sống trong cảnh nghèo, làm thơ chua và mất sớm. Thi rớt,
làm đúng theo lời sư phụ, tôi đi ngay thật. Tôi đi ngay vào rạp hát xuất permanent
ngồi suốt buổi sau khi không thấy tên mình trong danh sách thí sinh trúng
tuyển. Vui chi khi chàng trai hỏng thi… Khóc như cô thiếu nữ lúc bước đi về
nhà chồng. .. Tôi đâu có khóc, mà cũng không thể khóc như cô dâu về nhà
chồng. Cô dâu buồn trong chốc lát rồi sẽ được vui nhiều, chớ người trượt vỏ
chuối ơ trường thi thì… buồn vào hồn không tên, thức giấc nửa đêm, thấy buồn
sao là buồn!
Những ngày nghỉ (nhiều lắm!), tôi lội nát
quận nhì, quận nhứt, lan lên tới quận ba. Những con đường Hồ văn Ngà, Nguyễn
văn Sâm, Lefèvre, Yersin, Calmette của quận nhì, tôi lội bộ qua đó đều đều để
bắn me bằng giàn ná thun, để ăn vặt bò viên, bánh ướt tôm khô chả lụa, gỏi đu
đủ bò kho, bò bía, phá lấu, mực luộc. Tôi đi coi "xiné" ở các rạp
Khải Hoàn, Thanh Bình, Rex, Kinh Đô, Vĩnh Lợi, Lê Lợi, Majestic, Long Phụng,
Casino Sài Gòn, Moderne Tân Định. Gần nhà nhất là rạp Đại Quang ngay đầu hẽm
192, Đề Thám nhưng tôi chê vì rạp nầy chuyên hát phim Tàu, xem mặt cô đào Lý Lệ
Hoa mãi cũng chán. Xa hơn chút nữa có rạp hát Đại Nam trên đại lộ Trần Hưng
Đạo. Rạp nầy xịn lắm, với màn ảnh đại-vĩ-tuyến, ghế nệm và có máy lạnh đàng
hoàng. Đường Cô Giang gần Chợ Cầu Muối có rạp Diên Hồng, bên Bến Vân Đồn thuộc
quận tư có rạp Nam Tiến tệ hệ quá, nước đái khai rùm, chỉ đi coi một lần là dội
ngược, không trở lại lần thứ hai!
Thuở đó tôi mê coi phim chiếu bóng lắm. (Ủa
mà dường như bây giờ cũng còn mê thì phải?)
Phim Pháp chẳng có bao nhiêu, tôi chỉ nhớ phim Le Gorille Qui Salue
Bien (Khỉ Đột Xin Chào), La Loi des Rues (Luật Giang Hồ) do tài tử Lino
Ventura đóng, một số phim khác có hề "mặt ngựa" Fernandel như Vòng Quanh Thế Giới 80 Ngày, có kép
đẹp Alain Delon, có các đào đẹp Catherine Deneuvre, Claudia Cardinale, Brigitte
Bardot, v.v. Phim Nhật thì có Con Hạc Trắng, Người Phu Xe, Bạc Trắng Lửa
Hồng, Lã Sinh Môn, Ðịa Ngục Môn, Hiệp Sĩ Mù Nghe Gió Kiếm v.v. Đa số là phim Mỹ với các tựa phim bằng chữ Pháp mới tức cười,
chẳng hạn như Le Soleil Se Lèves Aussi Mặt Trời Vẫn Mọc, Vallée de la
Mort Thung Lũng Tử Thần, L’Auberge au Sixième Bonheur Quán Trọ Lục Phúc, L’Homme
au Colt d’Or Dũng Sĩ Súng Bá Vàng, Le Pont de la Rivière Kwai Cầu
Sông Kwai, Bonjour la Tristesse Buồn Ơi Ta Chào Mi, Le Jour le Plus
Long Ngày Dài Nhất, v.v.
Tôi cũng mê coi cải lương nữa. (học dốt là
phải!). Rạp Nguyễn văn Hảo ở ngay góc đường Trần Hưng Đạo với Đề Thám, rất gần
nhà, tôi đi bộ không đầy mười phút, là rạp tôi coi thường trực. Rạp nầy thiết
kế bên trong theo kiểu hí viện Âu châu, cũng có hai tầng balcon hình vòng cung,
hai đầu vòng cung có các khu ngồi ngăn riêng cho khách xộp. Hai tuồng cải lương
"Đoàn Chim Sắt" và "Mộng Hòa Bình" của đoàn hát Hoa Sen
diễn cả tháng, tôi xem không biết là mấy lần. Tôi mê sự mới lạ của kỹ thuật
điện ảnh, ánh sáng, âm thanh, cơ giới, mà ông bầu Bảy Cao với đầu óc sáng tạo,
tiên phong đem áp dụng vào sân khấu cải lương. Tôi khoái coi ông thợ vẽ affiche
bằng bột màu ngồi khòm lưng làm việc ngay một góc trước rạp. Về nhà, tôi cũng
bắt chước kẻ ô vuông một tấm hình trong tạp chí rồi cọp-pi lại trên một tờ giấy
trắng lớn hơn.
Sau
rạp Nguyễn văn Hảo là Ngả Tư Quốc Tế góc đường Đề Thám và Bùi Viện, một khu vực
thiết thân của giới nghệ sĩ, là nơi gặp gỡ của các ông bầu, soạn giả, họa sĩ vẽ
phông, ký giả săn tin, và các tay làm áp-phe văn nghệ…
Gọi đó là Ngã Tư Quốc Tế cũng xứng đáng, vì
chỉ trong vòng tròn với đường bán kính vài cây số, có ba rạp hát cải lương và
bốn rạp chiếu bóng thường tổ chức đại nhạc hội thi ca vũ nhạc kịch vào dịp cuối
tuần hoặc vào những ngày lễ lớn. Đại nhạc hội nào càng có nhiều hề, tôi càng
khoái đi xem. La Thoại Tân bô trai giả bộ anh khờ ngây thơ, Túy Hoa xí xọn,
Thanh Việt chuyên đóng vai đầy tớ, Thanh Hoài hiền ngoan vô tư, Khả Năng chàng
ngốc vai u thịt bắp , Tùng Lâm mỏ chuột ma lanh, Xuân Phát lên mặt dạy đời,
Hoàng Mai nổi nóng gây sự, Phi Thoàn õng ẹo như lại cái, Văn Chung cười băm lăm
con dê hết xẩy.
Nằm lọt trong cái vòng tròn đó là đường Bùi
Viện, nổi tiếng là nơi tập trung những quán nhậu thuần túy đặc sản quê hương,
và một quán cơm bình dân tự-phục-vụ self-service theo kiểu một cafeteria
nằm ngay góc đường của ngã tư. Cuối Đề Thám về hướng Bắc là ngã ba đường Phạm
Ngũ Lão, bản doanh của nhiều tòa soạn nhật báo, tuần báo, tạp chí. Phía bên kia
đường rầy xe lửa là đường Lê Lai với rạp Thành Chung của đoàn Kim Chung, với
nhiều cửa hàng cung cấp nhiều mặt sản phẩm và dịch vụ khác nhau. Bến xe đò đi
lục tỉnh Nguyễn Cư Trinh, Ga Xe Lửa và Chợ Bến Thành cũng nằm trong vòng tròn
đó.
Suýt soát hai mươi năm sống ở Sài Gòn, tôi
hay la cà ở cái ngã tư đầy cám dỗ nầy. Ban đầu, tôi mê mẩn những giọng hát lời
ca ngọt ngào như mía hấp hoặc tài diễn xuất lôi cuốn như nam châm của Út Bạch
Lan, Thành Được, Thành Công, Kim Cương, Ngọc Giàu, Văn Chung, Ngọc Nuôi, Việt
Hùng, Bích Thuận, Bích Sơn, Bạch Tuyết, Hùng Cường . Dần dần, tôi mơ mộng một
thần tượng Thanh Nga tài sắc vẹn toàn. Tôi đã từng lén ra hậu trường để coi
Thanh Nga sắm tuồng, thoa son dồi phấn. Đám tang của nghệ sĩ Năm Nghĩa, thân
phụ của Thanh Nga, diễn ra trên đại lộ Trần Hưng Đạo, tổ chức lớn lắm, người đi
rất đông, tôi cũng có xem.
Dĩ nhiên sau nầy khi đã vào lính và đã lập
gia đình, tôi chỉ còn mơ mộng đến Ngã Tư Quốc Tế qua hình ảnh mấy món nhậu gà
xối mỡ, cua rang muối, bò lúc lắc, lươn um xả, đùi ếch chiên bơ, tôm gỏi ngó
sen, đầu cá hấp, và mấy chai bia 33, bia con cọp.
Đại
lộ Trần Hưng Đạo là một trong những con đường huyết mạch, là trục giao thông
chính nối liền Sài Gòn với Chợ Lớn. Lề đường hai bên rất rộng, được che mát bởi
hai hàng cây cao vút, thân to lớn, thẳng đứng, nhánh xòe mang nhiều trái có
hình thù giống dái ngựa(?) nên cây bị đặt luôn cho cái tên khó nghe đó. Nghe
vậy mà không phải vậy, vì theo tôi nhận thấy, thành phần nào của loại cây nầy
cũng dễ thương hết. Tôi đã từng say sưa ngửa mặt dang tay hứng đón những cơn
mưa hoa vàng đổ xuống trong khi gió lay lá reo xào xạc. Đến mùa trái khô, những
trái hình quả lê hay quả bơ màu nâu láng năm cánh nở bung ra rớt xuống lề đường, tức thì cả đống hột có cánh đơn đồng
loạt bay, vừa bay vừa quay mòng trông giống như một màn đổ bộ của đoàn quân
nhảy dù lơ lửng trên không.
Nhà phố hai bên rất khang trang, sầm uất, có
nhiều cơ sơ thương mãi, trường học công lập, hí viện, nhà thương, cơ quan chính
phủ, giáo đường. Nhà thờ Tin Lành Sài Gòn (nằm ngay góc Trần Hưng Đạo/Đề Thám)
cũng là nơi tôi hay la cà vì ham vui, nhất là vào dịp lễ Giáng Sinh, được nghe
ban hợp ca hát liên tiếp nhiều bài êm ả lỗ tai vô cùng (Đêm đông lạnh lẽo,
Chúa sinh ra đời, Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá, trong máng lừa.). Tôi
từng vào bên trong thánh đường ngồi chăm chú nghe rao giảng đạo của Đức Chúa
Trời, được phát cho mấy tập bài giảng có nhiều hình vẽ rất đẹp.
Lễ Quốc Khánh 26/10 hằng năm dưới thời Đệ
Nhứt Cộng Hòa nhiều lần được tổ chức trên con đường nầy với khán đài danh dự
được dựng lên trước trường nam tiểu học Tôn Thọ Tường. Tiếng trống, tiếng kèn
của các ban quân nhạc vang vọng vào tận nhà tôi nghe rất rõ. Bài hát Suy Tôn
Ngô Tổng Thống với những câu Ai bao năm từng lê gót nơi quê người . Cứu đất
nước, thề tranh đấu cho tự do đã bị
bọn trẻ trong xóm tôi sửa lời lại là Ai bao năm từng lên gối nơi be sườn .
Cú cái cốc ngồi chong ngóc trong cầu tiêu!
Sân trường Tôn Thọ Tường rộng lắm, được dùng làm nơi tổ chức hội
chợ triển lãm hàng nội hóa mấy lần, có sân khấu và chương trình ca nhạc sống
giúp vui. Tôi đã nghe ca sĩ Việt Ấn hát bài Hận Đồ Bàn ở đấy. Sân trường nữ
tiểu học Phan văn Trị có trồng mấy cây chuối, cả bầy dế cơm làm ổ dưới gốc, tôi
bắt mấy chục con cho ông hàng xóm dồn đậu phọng chiên nhậu chơi. Một lần khác,
cà cuống bay về ngả tư nầy rất nhiều lúc ban đêm quần theo ánh đèn đường sáng
quắc và đâm đầu rớt xuống dưới chân cột điện, tôi lượm đem về cho mẹ tôi nướng
để giầm vô nước mắm pha lấy mùi thơm.
Trường Phan Văn Trị vào ban đêm biến thành
Trường Bách Khoa Bình Dân Học Vụ dành cho học sinh người lớn trau giồi kiến
thức văn hóa cho nên nhộn nhịp với đèn đuốc sáng trưng vui lắm. Cạnh rạp hát
Đại Nam có lò bánh mì Vạn Kim của người Tàu hầu như mở cửa suốt ngày đêm. Bánh mì ổ kiểu Pháp và kiểu Ý xuất phát từ lò
nầy ra nổi tiếng ngon nhứt Sài Gòn. Tôi hay ra lò bánh mì nầy mua vài ổ nóng
hổi mới ra lò thơm phức đem về ăn với vịt quay, xá xíu mà cha tôi đã mua ở Chợ
Cũ. Vừa bước vào cửa và đứng ở quầy đặt hàng và trả tiền, tôi có thể nhìn thấy
sau vách ngăn thấp có gắn kính trong suốt bên trên, những người thợ toàn là
thanh niên trẻ đang nhanh nhẹn làm việc.
Họ làm việc hầu như suốt ngày đêm vì bất cứ
giờ nào tôi lội bộ ngang qua đó cũng đều thấy. Họ mặc áo thun trắng, bụng quấn
tạp-dề trắng, đầu đội nón nồi trắng, cả nước da của họ nữa cũng trắng luôn vì
dính đầy bột mì và vì luôn luôn làm việc không có ánh nắng mặt trời. Họ làm
việc trong im lặng, hai tay cử động lẹ
làng thoăn thoắt nhồi nhồi nắn nắn mấy cục bột rồi dùng một cây que thật dài
bằng gỗ giống y như mái chèo để đưa bột vào lò gạch, bên dưới lửa than cháy đỏ
rực.
Xin mời bạn đọc một văn sau đây nói về con
đường Trần Hưng Đạo trích trong quyển tùy bút Thành Phố Trong Hồi Tưởng
của Trần Hồng Châu, bút hiệu của giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, người từng giữ chức
Khoa Trưởng Đại học Văn khoa Sài Gòn trước 1975:
Tôi vốn có duyên với đường Trần Hưng Đạo.
Đổi nhà mấy phen vẫn quanh quẩn trong lưu vực của dòng Trường giang thành phố
đó. Tôi trầm ngâm nhìn ngoài bản đồ Sài Gòn và trong tâm tư để xác định những
điểm "cao", những địa linh rải rác khắp dọc "sông". Đường
Đồng Khánh hay Trần Hưng Đạo nối dài, vùng các khách sạn Đồng Khánh và Thiên
Hồng-Arc en Ciel-nhất định phải là hẽm Vu-sơn, Vu-giáp trong Tình sử và Đường thi. Lòng đường bỗng dưng co hẹp
lại, nhà cao tầng san sát, rập rình lớp lớp ngựa xe, từng hồi chao đảo, từng
hồi nhấp nhô như sóng nước Trường giang bị kẹp chặt giữa hai sườn núi đá chênh
vênh.
Luôn luôn âm u sương khói phủ, khói phù dung
và phạn điếm giống như những nét mịt mùng, đậm nhạt, rất thủy mặc của vùng
cao-nguyên Tứ-xuyên, đầy lam sơn chướng khí và màu sắc u huyền. Luôn luôn chìm
trong mênh mông màn khói thuốc lá thơm và hoang tưởng mùi phấn hương của nhạc
chiều luân vũ, gần bên những Tân-Đào-Viên, những Bá-Lạc-Đài, những Đại-Thế-Giới
của một thuở nào. Đây là nơi đã từng đốt cháy hơn một
cuộc đời, đất hứa của những cảm giác lạ, những giấc mơ tình ái có nhiều mây và
mưa trong vương quốc của nữ thần huyền thoại. Đây là nơi, đúng như trong những
diễm tình tiểu thuyết cổ điển, ta có thể lên ngôi hoàng đế một đêm, để sớm mai
lại lủi thủi đi bên lề đường, cô đơn, như một Mại-du-lang đa tình, hay một
thư-sinh chưa trọn giấc kê vàng sau buổi lạc đề thi ngoài cửa khuyết.
Đi xa hơn nữa tới vùng Nancy, mang tên con
gái êm đềm của một vang vọng tình cảm, là đường Cộng-Hòa, mà tôi tạm gọi là
sông Tương chảy vào Trường-giang.
Tác
giả Trần Hồng Châu còn nói rất nhiều nữa (bảy trang giấy) về con đường Trần
Hưng Đạo mà ông ví nó như một con sông chính có nhiều nhánh phụ chảy vào. Ông
nhắc đến phía "hạ lưu" của dòng sông Trần Hưng Đạo có cái xóm Đề Thám
của tôi với rạp hát Nguyễn văn Hảo, Ngã Tư Quốc Tế, một cách ưu ái. Ông gọi đó
là "một vùng Giang, Triết phồn hoa", "một trong vài tụ
điểm của những người đẹp Sài Gòn, một trong vài vương quốc của phụ nữ đô thành,
của những cái gì đem lại một tấm linh hồn yểu điệu, nồng thắm cho trái tim miền
Nam". Ông khen cái khúc phố tôi ở có nhiều người đẹp, điều đó đúng, vì
thằng bé mười mấy tuổi là tôi trong những năm cuối của thập niên 50 đã rong
chơi cuối trời quên học làm chứng cho ông. Tôi đoán chắc ông đã nhiều lần lân
la ở phòng trà ca vũ nhạc Tháp Ngà (Tour d'Ivoire) nằm cùng một dãy với rạp
Nguyễn Văn Hảo.
Ở đó thì khỏi nói, là nơi tụ họp của bao
nhiêu ca sĩ tân nhạc thời danh như Kim Tước, Mỹ Thể, Bạch Yến, Bích Chiêu,
Khánh Ngọc, người đẹp, quần áo đẹp, xe hơi đẹp, dân chơi cũng đẹp. Trai thanh
và gái lịch nói cười rộn rã. Tiếng kèn saxophone, trombone, trumpet, contre
bass, từ các cửa sổ trên lầu thoát ra vọng xuống đường mê hoặc. Những bóng đèn
đủ màu chớp nháy chạy vòng khung bảng hiệu vũ trường nằm thẳng đứng càng làm
cho môi son, má phấn, tóc mây trở nên
thêm huyền hoặc. Gió mát của trời đêm thoảng mùi nước hoa Channel No. 5 mân mê
tà áo gợi ngất ngây. Một vùng phồn hoa. Đúng quá phải không các ông “Lá Thư Sài
Gòn” Văn Quang, Người Tân Định, hay soạn giả Nguyễn
Phương?
Thật ra cái gì cũng có mặt trái của nó.
Người ta thường có quan niệm văn chương thì phải hoa mỹ, bàn rộng khai triển
mặt tốt và lượt bỏ những nét tiêu cực. Thành phố Sài Gòn, dẫu mà khó thương,
cũng vẫn là thành phố tôi đã lớn lên, đã sống, đã yêu, đã nuôi dưỡng tôi khôn
lớn. Những nét xấu của nó không ít, nhất là cái xóm Đề Thám, rồi đến cái xóm
Khánh Hội đã mang tiếng rất nhiều. Hai nơi đó có đầy đủ hết những tệ đoan của
xã hội. Đề Thám có đĩ điếm, hút sách, cờ bạc, rượu chè. Vĩnh Hội có du đãng,
trộm cướp, đá cá lăn dưa. Đã nói Sài Gòn là thành phố có đầy đủ đặc tính của
một thành phố bến cảng tất nhiên phải hiểu cái tốt và cái xấu cùng hiện hữu
song hành bên nhau. Tôi không ca ngợi cái xấu, nhưng tôi cũng không nhắm mắt
chối bỏ sự có mặt của nó. Xã hội nào cũng có mặt phải thắp sáng hào quang và
mặt trái bị tránh né bỏ quên. Một thành phố tân tiến ơ Bắc Mỹ cũng không ra
khỏi ngoại lệ nầy, cũng có khu sang trọng, khu bình dân, cũng có những vấn nạn
khó giải quyết và tệ đoan xã hội.
Thành phố nước văn minh tân tiến có lường
gạt kiểu tinh vi hiện đại; Sài Gòn chậm tiến lường gạt kiểu cò con. Dọc theo
tường ngăn ga xe lửa Sài Gòn đầu đường Phạm Ngũ Lão, vào những năm cuối của
thập niên 1950, tôi thấy có mấy người Thượng người Mường, gia tài chỉ có một
cái gùi, ngồi xổm bán thuốc dân tộc gia truyền trị bệnh tầm bậy và tà ma. Tôi
bị họ níu lại một lần. Tuy nói tiếng Việt không rành bằng một giọng khó nghe,
nhưng họ rất kiên trì giảng giải về mức công hiệu của thuốc. Trước hết, họ kêu
hoặc ngoắc một khách bộ hành dừng lại rồi làm giọng như thương hại như thế
nầy:"Chà! Cậu em đang bị bịnh nặng lắm đó! Da xanh, mặt mụn, cổ ốm cao
nhòng! Dương khí đi đâu mất hết! Di tinh, mộng tinh, hoạt tinh, linh tinh! Hay là
bị thư bùa ngải gì rồi! Lại đây, lại đây. Tui có thuốc nầy hay lắm! Ma lai trên
rừng mà còn phải chịu thua! Có năm đồng thôi. Uống vô bảo đảm một tháng sau là
hết! Không hết lợi đây tui trả tiền lại!"
Dù trước đó chưa xanh mặt nhưng nghe họ phán
xong, tôi cũng phải xanh vì sợ. Định bỏ đi thì bị níu lại:"Tui chỉ muốn
cứu người làm vui, nếu cậu không có năm đồng thì trả tui hai đồng cũng được,
miễn là cậu hết bịnh!". Thằng nhỏ vốn cả nể nên mất toi hai đồng cho yên
thân. Gói thuốc thì quăng luôn xuống cống. Mấy ngày sau đi ngang qua đó thì các
thầy thuốc "dân tộc ít người" kia cũng đã chuồn đi chỗ khác! Đọc
phóng sự Hà Nội Lầm Than của ký giả Trọng Lang, tôi mới biết nơi chốn thủ đô
ngàn năm văn vật cũng có mặt những người Mường ngồi vĩa hè xóm Khâm Thiên bán
thuốc trị bệnh kín cho các gái nhẩy nghèo.
Trên khúc đường Đề Thám giữa Trần Hưng Đạo
và Cô Bắc có mấy tiệm may áo dài sát liền nhau, khách hàng thuộc phái đẹp dập
dìu. Nhà may Hạnh Dung rất nổi tiếng trong giới nghệ sĩ cải lương. Bà chủ có
hai cô con gái tên Hạnh và Dung, trạc tuổi tôi. Tình nhân của bà chủ là nghệ sĩ
Thành Công, hay đến đó lắm. Mỗi ngày đi học, tôi bắt buộc phải đi ngang qua
tiệm may, chạm mặt hoài. Một lần không biết vì lý do gì, em trai của tôi và em
trai của Hạnh và Dung đánh lộn. Bạn trai của Hạnh cũng nhào vô chơi đòn hội
chợ. Em tôi chạy về nhà kêu tôi tiếp cứu. Tôi nổi máu anh hùng Lục Vân Tiên,
quên mất tấm thân ròm, cùng em tôi chạy trở lại chiến trường hỏi tội "bọn côn đồ" và đấm đá một
trận với thằng bạn trai đáng ghét của Hạnh. Sau đó tôi mới biết nguyên nhân chỉ
vì em tôi đi ngang qua tiệm may và bị bọn chúng chọc ghẹo, em tôi tức quá đáp
lại vỏn vẹn hai tiếng "công ngủ", thế là bị đánh!
Tưởng như vậy đã yên, ai dè sau đó ít lâu,
một bữa bọn tôi ba đứa gồm có chú út tôi (bằng
tuổi với tôi), thằng em tôi và tôi đi học lội bộ về ngang
qua đó, lại có chuyện xảy ra. Ba chị em Hạnh, Dung đi học trường Tây cũng vừa
về tới nhà bằng xế hộp Peugeot 403. Hạnh Dung mặc đồ đầm bước xuống xe, tôi mới
đưa mắt liếc một cái thì con chó berger từ trong tiệm may phóng ra sủa
mừng bọn chủ. Chú út tôi thích chọc chó hơn là ngó gái nên dậm chân giả bộ gừ
gừ. Con chó quay qua, thằng em tôi sợ chó cắn nên chạy, hai chú cháu cũng chạy
luôn, thế là con chó chạy theo và ngoạm vô ống giò của tôi một phát rách da
chảy máu, báo hại tôi phải nghỉ học ngày hôm sau để cha tôi chở đi viện Pasteur chích ngừa bịnh dại. Tôi bị
lụi kim vô bụng cả chục mũi, đau còn hơn chó cắn.
Ngã tư Đề Thám - Cô Bắc có hai tiệm nước
(bán cà-phê, hủ tiếu) chéo góc nhau tây-bắc và đông-nam, góc tây-nam là
phông-tên nước công cộng, góc đông-bắc có trường tư-thục Tiên-Long. Trường nầy
rất có uy tín, với ban giáo-sư tên tuổi giàu kinh nghiệm, cỡ tuổi ba mươi mấy
trở lên, phân nửa đã già. Pháp văn lúc bấy giờ
vẫn còn là sinh ngữ chánh; thầy Đồng văn Nam với dáng người hom hem xổ tiếng
Pháp nói với học trò, bắt học trò quỳ gối lia chia nhưng vô cùng tận tụy với
nghề nghiệp, luôn luôn tự đánh máy bài giảng (cours) trên giấy pelure phát
cho học trò.
Tôi ngồi gõ keyboard bài viết nầy mà
hình dung lại cảnh ông phải lụm khụm đánh máy chữ nhiều lần, mỗi lần từng xấp
sáu tờ giấy mỏng có lót xen kẽ năm tờ giấy than được dùng đi dùng lại, tôi thấy
tội nghiệp cho ông quá. Thầy Hồ Công Mến dạy hóa học cũng là kỹ sư ở Pháp về,
đầu tóc bạc phơ, luôn luôn thắt cravate mặc complet màu ngà giống như một Trần Văn Hương. Thầy Lê
Thọ Xuân cao gầy dạy Sử Địa là
một học giả vừa dạy học vừa làm quản lý nhà in Maurice in sách cho nhà xuất bản
Phạm Văn Tươi nên thân với học giả Nguyễn Hiến Lê, khuyên học trò chúng tôi nên
mua cuốn bút ký phóng sự Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười của Nguyễn Hiến Lê mà
đọc.
Thầy Tư Mã Lộ dạy Việt văn chắc cũng gần sáu
chục, mặt đen, mang kính cận dầy, rất ngọt ngào với đám học trò, gọi đứa nào
cũng bằng con hết. Thầy Phong dạy vật lý tương đối còn trẻ, dáng dấp cao lớn
khỏe mạnh. Thầy Đông lai Tây, trắng trẻo, mắt sâu, tóc dợn sóng, dạy Anh-văn
sinh-ngữ hai bằng quyển L’Anglais Vivant, sau đó mới đổi qua English for Today
theo chương trình mới của Bộ Giáo Dục. Thầy Trần Hiếu Trung dạy vẽ phát
họa bằng bút chì, thật chậm và thật kỹ, mỗi tuần chỉ có một giờ làm tôi sốt
ruột.
Tôi chỉ lo kẻ ô hình mấy minh tinh Doris
Day, Linda Blair, Vivien Leigh, Debbie Raynold, Audrey Hepburn, Jayne
Mansfield, và cóp-pi lại bằng màu nước để tặng cho tụi bạn gái trong lớp.
Thầy dạy nhạc là nhạc-sĩ Văn Lương, tác giả
của những bản nhạc Tía Em, Má Em, Anh Đi Giữa Trời Xuân, Thao Thức, Nhìn Theo
Xe Hoa, Tiếng Hát Trên Ngàn, Giấc Mơ Không Đến Hai Lần, Tình Không Biên Giới,
Người Yêu Của Tôi, Yêu Không Nói, Em Vẫn Là Hoa Khôi Thành Phố, Trăng Với Tuổi
Trẻ, v.v. Thầy Văn Lương nhỏ con thôi, vậy mà ông lái một chiếc Harley Davidson
đồ sộ, máy nổ rầm rầm, đúng là nghệ sĩ chịu chơi; trong khi những ông thầy khác
đi dạy bằng xe tắc-xi, xe xích-lô đạp, xe Mobilette mà thôi.
Dường
như trường Tiên Long là một ổ cách mạng, một tiểu tổ đảng phái hay một chi nhánh
hội kín làm chính trị, vì cứ lâu lâu lại có một ông thầy biến mất, lâu lâu lại
có công an mật vụ xuất hiện ở văn phòng nói chuyện với ông hiệu trưởng rất
nghiêm trọng. Một vài thằng bạn trong lớp rõ chuyện nói với tôi là "thầy
A, thầy B vô nằm trong Chí-Hòa rồi!" Tôi là đứa vô tư, đầu óc đơn giản,
ham chơi hơn ham học, ham làm chuyện nhỏ hơn chuyện lớn, cho nên tôi không mấy
quan tâm đến việc làm ngoài lớp học của mấy ông thầy.
Lắm
lúc nghĩ lại, tôi nhận thấy việc học hành của tôi gặp nhiều lận đận một phần do
tôi khăng khăng nghe theo lời khuyên của các thầy. Thầy khuyên tôi theo ban
Toán vì đất nước đang cần nhiều chuyên viên kỹ thuật, trong khi tôi chỉ khá các môn sinh ngữ và văn chương, giống như
mấy câu thơ Xuân Diệu tự nói về mình trong tập Thơ Thơ "Hãy biết rằng
anh lúc ở trường, Rất tồi toán pháp, khá văn chương. Chàng trai đi học nghe
chim giảng, Không thuộc bài đâu, ấy sự thường". Tôi cũng nghe chim
giảng nên trượt vỏ chuối dài dài.
Bản Ðồ Sài Gòn
Vỏ chuối hay vỏ dưa hấu cùng với đủ loại
trái cây khác trong Chợ Cầu Muối lúc nào cũng nhiều, lối đi trong chợ lúc nào
cũng lầy lội trơn trợt. Một thằng bạn cùng lớp học dốt như tôi sống luôn nơi
vựa trái cây trong chợ. Nó tên Các, chị nó tên Ánh. Hai chị em học cùng lớp mấy
năm đệ lục, ngũ, tứ với tôi. Chị nó có cái mỏ trớt nên nói tía lia, đúng là con
gái buôn bán, lanh lợi vô cùng. Thằng Các và chị nó đều ngủ ghế bố. Ba Má nó
thì ngủ trên một cái sạp thấp chũm, trên sạp lại có treo một cái võng. Chiều
tan học, Các hay rủ tôi theo về vựa nó ngồi ké bên mép sạp đánh cờ tướng ăn củ
sắn non, cam, quít, mận, ổi xá lị. Mỗi lần mẹ tôi cần mua trái cây để cúng hoặc
ăn tráng miệng, tôi giành mua, ba má thằng Các bán rẻ cho tôi.
Mặt tiền Chợ Cầu Muối xây ra đường Nguyễn
Thái Học, cũng là một đại lộ với bóng cả cây già. Tháng cận Tết, các vựa dưa
hấu cất lấn ra chiếm hết lề đường, và lan dài ra gần tới Trần Hưng Đạo. Đối
diện với Chợ Cầu Muối là Trường Trung Học Tư Thục Bồ Đề ba tầng lầu chiếm một
góc của ngã tư Nguyễn Thái Học với Nguyễn Công Trứ. Kế bên trường Bồ Đề là
trường dạy nhạc của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, tiếp theo là một dãy tiệm chạp phô
bán đồ khô của người Tàu, lâu lâu bị đám học trò nghịch ngợm đi ngang qua bóc
một nhúm tôm khô hay mấy quả táo tầu đựng trong các bao bố để sát lề đường.
Đường Nguyễn Thái Học chấm dứt ở ngã ba Bến Chương Dương dưới chân Cầu Ông Lãnh
và Chợ Cá.
Tôi không nhớ lý do tại sao có nhiều lần tôi
lội vô Chợ Cá nhầy nhụa nầy. Nhưng tôi dám chắc một điều là không phải tôi đi
cua đào, mặc dầu tôi biết rành câu ca dao "Trai khôn tìm vợ chợ đông,
Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân". Tôi lội vô Chợ cá Cầu Ông Lãnh
chắc là chỉ vì theo một thằng bạn học nào mua cá, hoặc là để thỏa tính phiêu
lưu thôi. Tôi xuống các ghe chành chở đầy cá từ Biển Hồ Nam Vang về đậu san sát mấy hàng dưới con rạch
Bến Nghé để cung cấp cá cho các vựa chánh bán sỉ trong chợ. Từ đó cá được lựa
ra và chứa trong những thùng tròn lớn bằng thiếc để phân phối lại cho các bạn
hàng buôn bán lẻ. Cá Biển Hồ to lớn hơn
cá ruộng đồng Tiền Giang quê tôi. Nhiều con cá lóc bự bằng cổ chân người lớn,
một bàn tay cầm không giáp vòng. Mỗi ghe cá chứa hàng mấy ngàn con dưới lòng
ghe có ba ngăn, bên trên lót ván làm sàn có chừa nắp làm chỗ thòng vợt xuống
vớt cá. Con nào con nấy khi được vớt lên đều sứt đầu vỡ trán chứng tỏ chúng
không ngừng tung mình tìm cách thoát thân.
Trong loạt bài phóng sự kể chuyện thăm lại
Sài Gòn dịp đầu năm 2001, tác giả Nguyễn Tường Phong có kể sinh hoạt buổi sáng
sớm của khu lao động đó như sau:
Với lòng phấn khởi, tôi tà tà thả bộ (từ
khách sạn đang trú ngụ) ra khu Cầu Ông Lãnh tìm ly cà phê buổi sáng xem dân
tình thế sự. Trên hè đường, lác đác vẫn còn một vài bạn hàng căng ghế nằm ngủ
trước những khu cửa tiệm mở cửa trễ. Trái cây sắp vào mùa, chiếc xe ba bánh của
cặp vợ chồng trẻ bên đường chất lớp lớp những trái măng cầu xiêm trên lớp rạ
tỏa mùi thơm ngát. "Mua đi anh Hai, mười lăm ngàn một ký." Chị vợ
mời.
Nhìn những trái măng cầu xanh tươi chín
mộng, có trái hơi nứt ra khoe thớ thịt trắng phau. Tôi nuốt nước miếng: "Dạ
cám ơn" rồi hướng về ngã tư Ký Con, Nguyễn Thái Bình. Chao ơi, thật đúng
Sài Gòn năm xưa của tôi. Thiên hạ, đa số là dân lao động thợ thuyền, dân làm
ăn, xe ôm... đầy trên các bàn thấp quanh những sạp đồ ăn và các xe cà phê trên
vỉa hè. Tôi xà xuống chọn cái ghế trống giữa đám đông ngay sau một trạm sửa máy
xe nơi góc đường gọi một ly cà phê sữa nóng.
"Nóng đấy nhé cô hàng, thật nóng cho
tôi." Sự thật là tôi phải giữ gìn mồm miệng trong khi ăn uống để tránh
cảnh ôm quần mà chạy. Không tuyệt vời nhưng đúng ý, tôi cảm thấy vị cà phê
trong hơi nóng còn đang bốc khói. Xem nào, trước mặt tôi là sạp "cơm
bụi." Năm ngàn đồng một dĩa cơm gồm hai nửa cái giò heo kho tàu, trái
trứng "vzịt" và một gắp đầy đồ chua rồi chan thêm nước mắm pha kiểu
Sài Gòn ngòn ngọt cay cay.
Hình ảnh vài bạn hàng căng ghế nằm ngủ vào
năm 2001 thật chẳng khác với hình ảnh tôi chứng kiến gần nửa thế kỷ trước của
hai chị em thằng bạn học tên Các sống trong vựa bán trái cây Chợ Cầu Muối. Sau
trận hỏa hoạn cuối năm 1969, Chợ Cầu Muối được xây dựng lại khang trang hơn và
ngăn nắp hơn, nhưng dường như nếp sinh hoạt và đời sống của người dân quanh chợ
vẫn không thay đổi. Xe ba gác đã thay cho xe thổ mộ, nhưng con người lao động,
lời gọi chào, lối xưng hô, hàng quán bên vĩa hè, ly cà phê, dĩa cơm bình dân
vẫn như dạo nào, thật đúng là Sài Gòn năm xưa của tôi như tác giả Nguyễn
Tường Phong đã thốt lên.
Đợt di cư 1954 mang vào Sài Gòn cho tôi
nhiều bạn mới và thầy mới. Giọng nói khác và một số từ ngữ lạ chẳng những không
gây ra một khó khăn trở ngại
nào mà còn làm cho cuộc nói chuyện tăng thêm phần hứng thú và vui nhộn. Tôi có
mấy đứa bạn học, bạn cùng sở làm
người Bắc, gia đình định cư ở Thị Nghè, Bàn Cờ, Hòa Hưng, Lăng Cha Cả. Một điều
khiến cho tôi kinh ngạc là trong số bạn đó có đứa cũng nghịch ngợm, phá phách,
ham chơi và chịu nhậu như tôi vậy.
Sài Gòn có một cái "flea market"
lớn lắm. Đó là khu Dân Sinh trên đường Yersin, cách Chợ Cầu Muối chỉ một
"block" đường. Vào những năm đầu của cuộc di cư của đồng bào miền
Bắc, khu Dân Sinh tràn ngập quần áo cũ để mặc vào mùa đông ơ các xứ lạnh. Tôi
ngạc nhiên quá đỗi khi thấy hàng đống áo choàng bằng lông thú bự sự cồng kềnh
quá khổ. Tôi đoán chừng số hàng nầy là quà tặng của các cơ quan từ thiện và cứu
trợ từ các nước Âu Mỹ. Sau nầy, khi sự hiện diện của quân đội Mỹ ngày một gia
tăng ở Việt Nam, khu Dân Sinh là nơi hàng quân dụng thặng dư tràn ngập, món gì
cũng có, trừ súng đạn. Gọi là quân dụng thặng dư cho nó lịch sự chớ thật ra, đó
là hàng nhảy dù, hàng lậu, hàng ăn cắp từ các kho tiếp liệu của Mỹ hoặc hàng
quân-tiếp-vụ của QLVNCH. Tôi lui tới cái "chợ rận" nầy cũng năm bảy
lần, lúc thì mua một cái "field jacket", lúc thì một đôi "botte
de saut" tân trang có may "fermeture" bên hông, ghế bố cá nhân,
mùng, võng bằng giây dù rất bền chắc.
Gần ngã ba Yersin với Bến Chương Dương có
một ngôi chùa Minh Hương thật cổ kính được dựng lên từ khi những người Hoa đầu
tiên đến vùng đó lập nghiệp, mặt tiền xây ra sông, trước sân chùa có hồ nuôi
rùa, có vòng rào bao bọc. Không kể vùng Chợ Lớn, trong phạm vi Sài Gòn, người
Hoa tập trung ở quận nhì đông hơn cả. Nhân vật nổi tiếng là Chú Hỏa, tức Hui
Bòn Hỏa. Ông ta là một tay tài phiệt làm chủ nhiều đất đai nhà cửa vào bậc nhất
ở Sài Gòn, cũng giống như một Donald Trump của thành phố Nữu Ước vậy. Dinh cơ của ông ta như một lâu đài có
tường rào bao bọc chiếm nguyên một khu đất nằm lọt trong các đường Nguyễn Văn
Sâm, Hồ Văn Ngà, Yersin và Ký Con, gần nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam (sau đó
đã dời về đường Trần Hưng Đạo) và xưởng tranh mộc bản của họa sĩ Tú Duyên. Ngôi
dinh thự Chú Hỏa xây trên gò đất cao giữa vườn, chung quanh có cây cối, phía
sau có một ngôi nhà phụ nhỏ hơn. Hồi đó tôi hay đi ngang qua đó thấy ngôi nhà
lúc nào cũng vắng vẻ im lìm. Tôi nghe người ta đồn một người con gái của Chú
Hỏa bị bịnh điên, phải nhốt riêng ở cái nhà phía sau đó.
Gần cầu Khánh Hội chỗ ngả ba sông Ông Lãnh
nhập vô sông Sài Gòn có Cột Cờ Thủ Ngữ và Hội Quán Thể Thao Trượt Nước có cái
tên Tây Cercle Nautique Sài Gònais có sân thượng patio che dù, dân tây đầm ngồi
dựa ngửa hướng mắt ra thương cảng Sài Gòn, dõi nhìn những chiếc ca nô hors-board
kéo theo dân chơi trượt nước rẽ sóng, vừa uống bia vừa hóng gió. Thủ Ngữ là từ
Hán Việt, nếu dịch sát nghĩa đen là dùng ngôn ngữ bằng cách ra dấu tay. Nhưng
thật ra người ta dùng cờ vải đủ màu và hình thể để làm hiệu cho các tàu bè theo
quy luật hàng hải. Qua cầu Khánh Hội là con đường mang tên vị tướng Trịnh Minh
Thế tử trận trên cầu trong một trận đánh giữa quân đội quốc gia với quân phiến
loạn Bình Xuyên năm đầu tiên của nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Đây là lãnh thổ Quận Tư
với thương cảng Sài Gòn, với các dãy nhà kho mênh mông và với huyền thoại về
những tay anh chị đâm thuê chém mướn xóm đường Tôn Đản. Nghe thì ghê vậy chứ
tôi chưa hề gặp một tay mặt rằn giết người không gớm tay nào cả trong suốt bảy
năm sống vùng đó.
Cha tôi quan niệm có làm việc thì phải có
hưởng thụ. Cuối tháng lãnh lương, ông hay đưa gia đình đi ăn cơm thố ở Chợ Cũ,
nhà hàng Đồng Khánh trong Chợ Lớn, bò bảy món ở quán Bảy Lọ (góc ngả ba Cống
Quỳnh - Bùi thị Xuân), Quán nầy nguyên là một ngôi biệt thự nhỏ nằm ơ góc
đường, sân trước có rào, đặt mươi cái bàn, khách ngồi ghế xếp, nhưng đông khách
vì nấu ngon. Cha tôi cũng đưa gia đình đi ăn nhà hàng Arc-en-Ciel, Parc-au-Lac
rộng lớn, có sân lộ thiên lót gạch, trang trí các chậu sứ cây kiểng uốn hình
chim thú. Cuối tuần đi làm ra, ông hay ghé Chợ Cũ mua thịt heo quay, hoặc vịt
quay, hoặc xá xíu cùng với vài ổ bánh mì tây mang về nhà ăn thay cơm thường
ngày. Vì vậy, anh em chúng tôi trong gia đình cũng bị lây nhiễm triết lý sống
đó, có khi lạm dụng, hưởng thụ hơi nhiều. Thành tích hưởng thụ của riêng tôi
không lấy gì làm ghê gớm. Tôi hay đạp xe đạp đi câu cá ở vùng ngoại ô: đi An
Lạc, Bình Chánh, Phú Lâm câu cá rô, cá trê vàng, cá lóc; đi Phú Xuân Nhà Bè bắt
cua, bắt còng; đi gần hơn ra cầu Bình Lợi câu cá ngác, tôm càng; siêng nữa thì
lên tuốt Bình Nhâm Bình Dương tắm suối tắm sông, bẻ mía và ăn trái cây đã đời.
Tôi cũng mê sưu tầm tem một thời gian dài.
Khởi đầu, tôi trầm trồ ngắm ngía những con tem cha tôi mang về từ sở làm. Dần
dần, tôi đạp xe đạp ra Passage Eden để la cà hàng giờ nơi tiệm tem lớn
Philatelique gần bên tiệm sơn mài Thành Lễ. Lần nào ra đó, tôi cũng dốc hết
tiền túi ra để mua tem, album tem, kính rọi, kẹp gắp tem. Vào những ngày có
phát hành tem đầu tiên, tôi ra Bưu Điện chực chờ và chen lấn với đám đông một
cách hứng thú để mua phong bì in sẵn từ những người bán lẻ, xong rồi mua mấy bộ
tem mới tinh từ các guichet bưu điện, xong lại cẩn thận dán tem lên phong bì
cho ngay ngắn, và cuối cùng đến các bàn xin đóng cho cái dấu "Ngày Phát
Hành Ðầu Tiên".
Sau nầy, khi "tiện nội" đã vào làm
việc ở Nha Viễn Thông của Tổng Cục Bưu Điện, tôi đã có một "tay
trong" đắc lực lo hộ mua vài bộ tem phát hành đầu tiên đó. Địa chỉ Nha
Viễn Thông, số 3 đường Nguyễn Hậu bên hông Bưu Điện Sài Gòn đã đi vào thiên
tình sử với những buổi Em tan sở về… Đường mưa rầm rập. (thay vì Em tan
trường về...Đường mưa nho nhỏ... của Ngày Xưa Hoàng Thị). Những ngày đó của
những năm 1967 - 1973, có một anh chàng lính văn phòng gầy gò đậu chiếc xe
Yamaha (sau đổi qua Honda dame do Tổng Cục Tiếp Tế bán cho quân nhân công chức
với giá nới hơn giá thị trường) bên lề đường đầy lá me bay trên con đường
Nguyễn Hậu ngắn ngủn để ngóng chờ bóng dáng người yêu trong chiếc áo dài thướt
tha xuất hiện nơi đầu bậc thềm cao vào giờ tan sở.
Thuở chúng tôi mới quen nhau vào năm 1961, nàng ở với người cậu ruột
trên đường Gia Long. Khu vực nầy thuộc Quận Nhứt gồm toàn những biệt thự kín
cổng cao tường. Cậu nàng là một sĩ quan hải quân cao cấp đang nắm chức vụ giám
đốc hải quân công xưởng, tư dinh ông ở gần tư dinh của đại tướng Lê văn Tỵ. Nhà
cậu nàng có nuôi hai con vượn trắng bị cột giây xích thả trên cành cây ngoài
vườn. Mỗi lần tôi dừng chiếc vélo solex trước cổng và hồi hộp bấm chuông là hai
con vượn nhảy nhót tưng bừng và hú lên inh ỏi vang tiếng trong vòm cây làm cho
tôi càng khớp hơn.
Vài năm sau, nàng lại dọn về ở nhà người chú
mãi trên đường Hoàng Hoa Thám, Gia Định. Cuối tuần đi gặp nàng, chuyến đi của
tôi xa hơn và dài thêm. Đề Thám, đại lộ Trần Hưng Đạo, đại lộ Hàm Nghi, Bến
Chương Dương, đường Đinh Tiên Hoàng thăm thẳm qua Đakao, ngang qua lăng Tả Quân
Lê Văn Duyệt, thêm một đoạn dài trên đường Hoàng Hoa Thám ngang qua đền thờ Hai
Bà Trưng, mừng quá, tôi đã đến nhà nàng! Hoàng Hoa Thám. Quả là định mệnh. Tên
đường chất chứa tên hai đứa. Tên tôi chất chứa tên nàng. Con đường xưa em đi
cũng là con đường vu qui vào năm
1965 khi tôi mới 22 tuổi. Nàng rời nhà ở đường Hoàng Hoa Thám để về nhà tôi ở
đường Đề Thám, thì cũng chỉ là tên của một người, vị anh hùng chống Pháp trên
suốt 25 năm và từng được mệnh danh là Hùm Thiêng Yên Thế.
Tôi là một con dế mèn thích phiêu lưu, tuy
chỉ là phiêu lưu vặt quanh khu xóm, quanh thành phố trong vòng vài tiếng đồng
hồ cuốc bộ bằng bộ giò ống điếu của tôi. Tôi từng vừa cõng vừa dắt mấy đứa em
đi Hội Chợ Thị Nghè năm 1958, cũng may buổi chiều lo về sớm, nếu không thì có
thể bị đám đông đè chết trên cầu Thị Nghè.
Tối hôm đó nghe tin tức trên radio, tôi mới
biết là tai nạn đã xảy ra khi hai đám đông từ hai đầu cầu dồn nhau lại gây hỗn
loạn khiến cho lan can cầu sập, người ta lớp bị đạp nghẹt, lớp lọt xuống sông,
chết mấy chục mạng.
Mỗi
khi bắt được tin nóng hổi có biến cố xảy ra, tôi dọt ra khỏi nhà liền. Năm
1954, tôi dắt em tôi đi coi biểu tình do đồng bào người Bắc mới di cư vô Sài
Gòn tổ chức. Mục đích của họ là phản đối
sự có mặt của một phái đoàn Cộng Sản Bắc Việt đến Sài Gòn tham dự cuộc họp với
Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. Cuộc biểu tình đã bắt đầu từ ngày hôm trước
nơi khách sạn Majestic cuối đường Tự Do với Bến Bạch Đằng là nơi phái đoàn nghỉ
trọ. Bây giờ nó xảy ra trước một trụ sở góc đường Trần Hưng Đạo - Nguyễn Khắc
Nhu, gần khu nhà tôi. Tiếng hô lớn của đoàn thanh niên sinh viên người Bắc biểu
tình qua các loa phóng thanh đã lôi kéo tôi, một thằng bé tò mò thích phiêu
lưu. Dịp đó, tôi bị nếm mùi lựu đạn cay khi cảnh sát đô thành đến giải tán đám
biểu tình. Không chuẩn bị trước, anh em tôi lãnh đủ, chạy về nhà trong ràn rụa
nước mắt và nước mũi, suýt nữa có cả nước gì
khai khai!
Đường Lê Lợi có nhiều điểm nóng đầy hấp lực
đối với học sinh trung học Sài Gòn. Từ Chợ Bến Thành đến trụ sở Hạ Nghị Viện về
phía bên trái có nhà sách Khai Trí, là cửa hàng sách lớn nhất nước. Gần đến góc
Nguyễn Huệ có Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, thư viện Abraham Lincoln sáng sủa mát mẻ
lịch sự, ta vào đó để được phát cho một quyển tạp chí Thế Giới Tự Do in trên
giấy tốt và đầy hình ảnh màu. Nếu bạn có tiền rủng rỉnh trong túi và có người
yêu đi bên cạnh thì cứ băng qua đường tạt vào quán kem Givral cho người đẹp
ngồi nghỉ chân; nếu không thì hãy vòng lại trên đường Lê Lợi đến ngã tư Pasteur
kêu hai ly nước mía Viễn Đông có thêm quít cũng được; nếu đói thì làm tạm một ổ
bánh mì tiệm Thanh Bạch cạnh đó, xong tha hồ tạt vào những sạp bán sách cũ, bán
bài nhạc, bán thiệp, bán lịch, có đủ loại tạp chí sách báo tiểu thuyết chữ Anh,
chữ Pháp lựa mua vài món tặng cho nàng để làm kỷ niệm một chuyến dạo phố
Bonard. Trước khi chia tay nhau, nếu nàng có rủ bạn tạt qua tiệm Bảo Hiên Rồng
Vàng sau chợ Bến Thành để mua một cân chả quế, năm ba cái bánh cốm, bánh dầy
thì bạn cũng hãy vui vẻ chìu nàng như hai câu ca dao Chìu em anh hết sức
chìu. Như chàng Đinh San họ Tiết đã chìu nàng Phàn Lê Huê.
Trên đường Tự Do có tiệm Thái Thạch chuyên
bán rượu bánh nhập cảng từ các nước Âu châu toàn là sản phẩm thượng hạng đắc
tiền. Những năm cha tôi còn khá giả, ông hay mua rượu bánh ở tiệm nầy. Đến đời
tôi, lương lính chẳng có bao nhiêu, cho nên tôi xin về nguồn.
Sài Gòn có nhiều công trường. Không hiểu tại
sao thuở đó ai bày gọi các tụ điểm của nhiều ngả
đường là công trường. Nghe hai chữ công trường, tôi cứ bắt nghĩ đến những chỗ
con người bị cưỡng bức lao động khổ sai. Nhưng không, các công trường ở Sài Gòn
rất đáng yêu, là nơi bạn học ngồi ăn vặt và tán láo, nơi con trẻ vui đùa, và
nơi các đôi thanh niên thiếu nữ tình tự.
Công trường Diên Hồng trên Bến Chương Dương
có gió sông mát mẻ, công trường Duy Tân cây già bóng mát bất tử trong một bài hát của Phạm Duy; công trường
Mê Linh với bức tượng Hai Bà Trưng bị tai tiếng là được tạc tạo bằng đường nét
của hai mẹ con bà cố vấn Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Lệ Thủy; công trường Lam Sơn
xuất hiện nhiều nhất trên các kiểu bưu thiếp Sài Gòn và cả trong các album ảnh
gia đình của người dân Sài Gòn; công trường Quách Thị Trang tức Bùng Binh Chợ
Bến Thành Sài Gòn vinh danh một nữ sinh Phật tử chết vì đạo nạn trong một cuộc biểu tình bị đàn áp. Đầu đường Lê
Lợi cạnh công trường Quách Thị Trang có bót cảnh sát Lê Văn Ken, rất tiếc tôi
chẳng biết gốc gác của cái tên đó, không chừng là tên của một vị bạn dân bỏ
mình vì công vụ. Một lần tôi bị đạo chích thuỗm mất chiếc xe đạp hiệu St.
Laurent khi tôi vào tiệm Minh Phát ơ góc đường Lê Lợi và Nguyễn Trung Trực để
mua mấy bản nhạc mới ra lò tặng người yêu. Tôi đến bót cớ. Dù dượng ba (chồng
của cô ba tôi) đang làm xếp phó cảnh sát Quận Nhì, chiếc xe đạp phần thưởng đậu
bằng tiểu học của tôi một đi không trở lại.
Bây giờ đã quen với hình ảnh gồ ghề của cảnh
sát Bắc Mỹ, chợt nhớ lại hình ảnh của những nhân viên cảnh sát công lộ ở Sài
Gòn, tôi thấy những người bạn dân của Sài Gòn hiền khô thật dễ thương và vui
vui nữa. Họ mặc đồng phục trắng ủi hồ mang găng tay trắng, đứng trên một cái
bục tròn bằng cái thùng phuy cắt đôi rồi úp lại cũng sơn trắng. Miệng ngậm cái
tu huýt của trọng tài đá banh, họ vừa thổi còi vừa không ngớt giăng hai cánh
tay ra hiệu để điều khiển dòng xe cộ nườm nượp vì ngả tư đường phố Sài Gòn hồi
đó chưa có đèn lưu thông. Người bình dân không gọi mấy ông bạn dân nầy bằng tên
chính thức là cảnh sát công lộ; họ gọi bằng một cái tên nôm na "nhiều ấn
tượng" là cảnh sát chim bay cò bay! Tôi nghĩ công việc của họ mệt lắm chớ
không phải chơi vì phải múa may quay cuồng trong nhiều tiếng đồng hồ dưới nắng
chang chang. Vào ban đêm, họ cũng làm việc chim bay cò bay, hai tay cầm hai cây
que dạ quang. Đôi lần bị họ chặng hỏi thẻ căn cước và thẻ đăng bộ xe, tôi không
sợ bằng gặp trooper trên xa lộ xuyên bang, vì tôi có thể năn nỉ cảnh sát phe ta
xí xóa chớ mấy ông cớm Mỹ mang kính đen biên giấy phạt răm rắp không có năn nỉ
gì hết!
Máu lãng tử trong
người rộn rã, Óc phiêu lưu hối hả lên đường , ngày 11/11/1960, tôi và chú út
tôi, hai thiếu niên 16 tuổi, đèo nhau trên chiếc xe đạp theo đường Công Lý ra
trước Dinh Độc Lập coi biểu tình ủng hộ đảo chánh. Trên đại lộ Thống Nhứt, đoàn
biểu tình hàng ngàn người căng biểu ngữ dàn hàng ngang từ hướng Nhà Thờ Đức Bà
đang tiến tới trước cổng Dinh trong khí thế rất hăng say. Chú cháu tôi cũng
nhập vô đám biểu tình, cũng hô theo các khẩu hiệu. Bỗng súng nổ ào ào hàng loạt
không dứt.
Mọi người tán
loạn, lớp chạy núp vào gốc cây hai bên công viên, lớp nằm lại. Tôi cúi đầu nằm
sấp xuống lộ. Khi tiếng súng đã dứt, tôi bò dậy thì không thấy chú tôi đâu cả,
đôi dép tôi cũng mất, tay chân bị trầy sướt mấy chỗ vì chen lấn xô đẩy trong
đám đông. Có nhiều người chết hoặc bị thương. Tôi lo tìm chú tôi một hồi nhưng
vẫn không thấy, đành hối hả vừa đi vừa chạy về nhà, lòng tràn đầy lo lắng,
không biết phải ăn nói làm sao với cha tôi đây. May quá, từ đầu đường hẻm, tôi
đã thấy chiếc xe đạp của chú tôi dựng trước nhà. Bước vô nhà, tôi thấy chú tôi
còn nguyên vẹn hình hài, đang ngồi uống xá xị. Hú vía! Chú tôi tử trận ơ Tây Ninh
năm 1973 khi chưa tròn 29 tuổi.
Năm 1961, chúng
tôi lại chứng nào tật nấy, đạp xe ra phi trường Tân Sơn Nhứt đi đón Phó Tổng
Thống Hoa kỳ Lyndon B. Johnson qua Sài Gòn, vì tò mò thôi. Chúng tôi cũng đi
coi đám tang đại-tá Hoàng Thụy Năm, sĩ quan liên lạc trong Ủy Hội Kiểm Soát
Quốc Tế bị Việt Cộng ám sát quăng thây xuống sông Sài Gòn. Kể từ đó, tình hình
chiến sự bắt đầu leo thang khắp nơi trong nước, mấy lần về quê thăm ông bà
ngoại, tôi không dám ở lại ban đêm nữa. Tình hình chính trị ở Sài Gòn cũng bất
ổn, sinh ra nhiều biến động.
Dinh Ðộc Lập
Năm 1963, Sài Gòn
có biểu tình liên miên. Phật tử phản đối lịnh của chính quyền cấm treo
cờ Phật giáo. Ngày 11 tháng 6 năm đó, tôi ngơ ngẩn dừng xe lại trên đường Lê
văn Duyệt khi thấy đám đông ngăn cản giữa lộ, cách vài chục thước là cảnh hòa
thượng Thích Quảng Đức tự thiêu. Phản ứng giây chuyền, việc cấm treo cờ đưa đến
biểu tình, tự thiêu; tự thiêu đưa đến việc phong tỏa khám xét chùa chiền, bắt bớ
sư sãi; đàn áp tôn giáo đưa đến đảo chánh, đảo chánh mà thành công thì trở thành cách mạng.
Tháng tám, sinh viên học sinh Sài Gòn xuống đường biểu tình rầm rộ, chánh quyền
ra lịnh đóng cửa tất cả các trường đại, trung-học, công cũng như tư. Biểu tình
vẫn tiếp tục diễn ra, hàng ngàn sinh viên học sinh bị bắt. Mỗi lần tôi bước ra
khỏi nhà là mỗi lần mẹ tôi năn nỉ:"Con ơi, đừng có biểu tình nghe
con." Tôi "dạ" cho có lệ rồi dọt lẹ ra đường.
1/11/1963, ngày
cách mạng, tôi đã 19 tuổi, càng lớn càng đâm ra hoang mang trước thời cuộc, ai
phải, ai quấy không biết đường nào mà rờ. Tôi lại ra đường nghe ngóng, quan
sát, bất chấp lời cảnh giác trên làn sóng phát thanh, yêu cầu đồng bào hãy ở
yên trong nhà, đừng ra ngoài đường, để tránh mọi sự đáng tiếc có thể xảy ra.
Mọi sự đáng tiếc đã xảy ra hết rồi thì còn gì nữa để mà tránh. Hai anh em ông
tổng thống Ngô Ðình Diệm bị giết. Có sự rạn nứt trong hàng ngũ các tướng lãnh.
Binh sĩ hoang mang, dân chúng hoang mang. Địch quân mừng thầm trong bụng, rảnh
tay đánh phá và giết hại phe ta nhiều hơn. Kinh tế bị ảnh hưởng, vật giá leo
thang, con buôn đầu cơ tích trữ, người tiêu thụ nghèo càng khốn đốn hơn.
Năm đó, nếp sống
trung lưu của cha tôi cũng đã chấm dứt; chấm dứt từ khi Bà Cố Vấn Nhô Đình Nhu
đã hoàn toàn làm chủ hệ thống kinh tài, nắm hết trong tay dịch vụ chuyển ngân
cùng nhiều ngành kinh doanh khác. Cha tôi mất việc ở ngân hàng, quay sang thử thời vận hùn hạp
làm ăn riêng với vài người bạn đồng sự cũ trong một thời gian và bị thua lỗ,
sau nầy phải bán xe rồi bán nhà. Mỗi tuần, cha tôi không còn rủ tôi đi xem xổ
số kiến thiết quốc gia ở rạp Thống Nhứt nữa. Nhưng ông dễ gì quên bài hát gắn
liền với tên tuổi của quái kiệt Trần văn Trạch, bạn học cũ của ông ở Mỹ Tho.
Thỉnh thoảng ông vẫn hát: "Kiến thiết quốc gia giúp đồng bào ta xây đắp
muôn người được nên cửa nhà.. Tô điểm giang san qua bao lầm than ta thề kiến
thiết trong giấc mộng vàng.. Triệu phú đến nơi chỉ mươi đồng thôi mua lấy xe
nhà giàu sang mấy hồi.. Kiến thiết quốc gia giúp đồng bào ta, ấy là thiên chức
của người Việt Nam". Tôi nghe vậy rồi nghĩ đến hoàn
cảnh của những người mê cờ bạc mà tan nát cửa nhà bèn lén hát nho nhỏ: "Kiến thiết quốc gia khiến đồng bào ta tan
nát cửa nhà nghèo xơ mấy hồi "(Xin lỗi chú Trạch). Cũng may, sau đó
cha tôi xin được việc làm phòng kế toán cho hãng dệt DACOTEX và dọn về cư xá
Vĩnh Hội bên kia Cầu Ông Lãnh.
Đầu năm 1964, tôi nhận được lệnh động viên
lên đường nhập ngũ. Mẹ tôi ngỡ ngàng rưng lệ. Cha tôi khuyên con nên cố gắng
giữ gìn sức khoẻ (hay mạng sống?). Người yêu tôi thề nguyền một dạ thủy chung
và vững một niềm tin chờ đợi một ngày về. Mãn khóa huấn luyện quân sự và tốt
nghiệp ra trường, tôi phục vụ đơn vị mới ở Nha Trang. Tôi tạm xa chiếc nôi tình
thương Sài Gòn. Hai năm sau, tôi hát bài Anh Về Thủ Đô. Tôi được thuyên chuyển
về Sài Gòn làm lính kiểng. Lúc bấy giờ, gia đình tôi đã dọn về xóm Vĩnh Hội
thuộc Quận Tư.
Sài
Gòn Thứ Bảy ngàn hoa trên đường... Lòng mình cứ tương mùa xuân yêu đương... Đời
tôi năm tháng phong sương… dầm mưa dãi nắng biên cương… nay tôi về kiếm người tôi
thương... Sài Gòn Thứ Bảy còn ai mong chờ… Một người lính trẻ về thăm kinh
đô... Người lính chiến ấy là tôi... Lần đi khi nắng đang vơi... Gói trọn nỗi
thương cuộc đời…
Máy bay vừa đáp xuống phi trường Tân Sơn
Nhứt là tôi vui quá, trong đầu nghe như có tiếng hát của Thanh Phong đang trình
bày một bài nhạc quen thuộc của Anh Bằng. Tôi tiếp tục được làm người Sài Gòn,
hít thơ bụi Sài Gòn, bây giờ còn có thêm mùi sình của con kinh Bến Nghé (thường
được quen gọi là sông Cầu Ôâng Lãnh) vào lúc nước ròng, mùi rau cải ún thối của
Chợ Cầu Muối, mùi khăm khắm của vựa làm mắm trên Bến Vân Đồn. Tôi tắm nắng dội
mưa Sài Gòn, có cả mưa pháo kích hỏa tiễn 122 ly của Việt cộng từ miệt Tân Quy
bên kia con Sông Tẻ bắn bừa bãi vào Quận Tư, miễng ngói bay rào rào trên căn cư
xá C. 9 Vĩnh Hội. Tôi chia sớt ngọt bùi đắng cay với Sài Gòn, bằng lòng đóng
vai một chứng nhân trung kiên của Sài Gòn bên lề lịch sử.
Tết Mậu Thân 1968, người lính kiểng cũng
phải cầm súng chiến đấu bảo vệ đơn vị đồn trú và bảo vệ Sài Gòn, nơi đó có vợ,
có con, có cha, có mẹ của mình đang sống trong kinh hoàng sợ hãi. Một lần nữa,
người lính kiểng có dịp chạm mặt và giao tranh với quân địch Việt cộng trong
một trận đụng độ ở cấp trung đội, đẩy lui toán xâm nhập của cộng quân trong khu
đường Khổng Tử, Chợ Lớn. (Chùa) Nghĩa Nhuận Hội Quán gần
Cầu Ba Cẳng cấp tốc trở thành
trại tiếp cư che chở cho mấy
trăm đồng bào tị nạn. Tôi có mặt trong toán bảo vệ an ninh cho Chùa, một toán
lính văn phòng trói gà không chặt nhưng may mắn được đặt dưới quyền chỉ huy của
đại úy Nghiêm, một sĩ quan đầu đã bạc và từng có nhiều kinh nghiệm chiến
trường. Lợi dụng ưu thế bố trí trên lầu cao và yếu tố bất ngờ, chúng tôi đồng
loạt khai hỏa và tung lựu đạn vào toán cộng quân đang chạy lúp xúp bên hông
hãng xà bông Trương văn Bền, gây cho chúng một số thiệt hại nhân mạng và tịch
thu một số vũ khí. Phe ta chỉ có hai người bị thương, một nặng một nhẹ.
Thành phố Sài Gòn thân yêu ngập tràn trong
khói lửa. Khu Bàn Cờ Nguyễn Thiện Thuật thành bình địa. Khu Khổng Tử Chợ Lớn nát tan. Khu Vĩnh Hội Quận Tư tôi ở
cũng nếm mùi hỏa tiễn. Những hôm về nhà ngủ, tôi dằn gối một quả lựu đạn M.26
lén mang về từ đơn vị và một khẩu lục Smith & Wesson của ông dượng người Mỹ
cho tôi làm của riêng. Tôi định bụng nếu Việt cộng vào nhà thì tôi bắt buộc phải
chơi liều.
Bấy giờ, gia đình tôi cư ngụ trong Cư Xá Vĩnh Hội thuộc Quận Tư. Hàng
ngày đi làm bằng chiếc xe gắn máy Yamaha, tôi chạy một đoạn Bến Vân Đồn, qua
cầu Calmette, qua bùng binh Sài Gòn, theo đường Lê văn Duyệt đi miết qua khỏi
ngã sáu Trần Quốc Toản, quẹo trái vào cổng trại Biệt Khu Thủ Đô. Suốt gần bảy
năm trời, tôi đã đi làm qua lộ trình đó, bị đụng xe mấy lần mang thẹo và cũng
đã từng chứng kiến tận mắt cảnh người chết trên vũng máu giữa lộ. Khoảng cuối
năm 1969, toàn thể khu Chợ Cầu Muối bị hỏa hoạn thiêu rụi, cháy suốt cả ngày,
hai chiếc trực thăng Chinook của quân đội Mỹ luân phiên nhau múc nước sông gần
Cầu Ông Lãnh phụ chữa cháy. Tôi xách máy ảnh ra đứng ở hành lang cư xá chụp hết
cả một cuộn phim 36 bô trước sự hứng chí hò hét của thằng con trai đầu lòng ba
tuổi. Nó bị hình ảnh máy bay mê hoặc kể từ đó. Ngày nay, nó không bỏ sót một
cái Air Show hàng năm nào quanh vùng Toronto này cả: Hamilton, Buffalo, London,
Winsor, chụp cả đống hình đủ loại máy bay.
Sài Gòn là nơi có rất nhiều cơ quan hành
chánh và đơn vị quân sự của Việt Nam Cộng Hòa mà tiền thân nguyên là các doanh
trại của quân đội viễn chinh Pháp, cho nên có kiến trúc giống nhau: Bộ Tổng
Tham Mưu QLVNCH, Bộ Tư-Lệnh BKTĐ, Bộ Tư Lệnh CSQG, Bộ Tư Lệnh TQLC, v.v. Chu vi
các doanh trại nầy có tường dầy bao bọc (nên thường được gọi là thành: thành
Ô-Ma, thành Cộng-Hòa), có nhiều cổng chánh, cổng phụ dẫn ra đường phố; trong
thành là những dãy lầu hai tầng, dài khoảng năm chục thước, một mặt có hành
lang rộng, có lan-can bằng sắt rắn chắc, nền lót gạch hoặc xi-măng, thềm cao,
chính giữa và hai đầu dãy có bậc thang. Phòng ốc thoáng mát vì có trần nhà cao,
cửa cái và cửa sổ rộng ơ hai đầu phòng.
Biết bao đêm ứng chiến đơn vị, tôi giăng
mùng nơi hành lang thoáng mát, nằm ngắm ánh trăng lung linh qua lá cành cây bã
đậu bên khẩu súng Carbine M.2 tự động, nghĩ đến những thằng bạn học đang xông
pha nơi chiến trận: Nguyễn Mộng Thu, Võ văn Sang, Lâm văn Mỹ, Nguyễn Sĩ, Thái
văn An, Trần Tán Xuất, Trần Cao Siêu. Xuất là em của nhạc sĩ Y Vân và nhạc sĩ Y
Vũ (tác giả của bản nhạc Tôi Đưa Em Sang Sông). Bút hiệu của nó là Y Phong, bay
bướm và quậy dữ hơn tôi nhiều. Nó kể bố nó chọn tên trước cho bốn anh em của nó
là Thanh Long Xuất Động. Nó nhằm đứa co trai thứ ba trong gia đình, phải lãnh
cái tên Xuất tiền định! Siêu là em của đại tá Biệt Động Quân Trần Cao Lầu, rất
nhanh nhẹn tháo vát, lo lắng giúp đỡ cho bạn bè và đồng đội tận tình. Có đứa
như Nguyễn Sĩ, hoa tiêu trực thăng, lập được nhiều chiến công ngoài mặt trận,
được bầu làm Chiến Sĩ Xuất Sắc về thủ đô dự Ngày Quân Lực 19/6, tôi thì ở trong
ban tổ chức và tiếp đón phái đoàn; chúng tôi gặp nhau vui mừng biết mấy. Thế
rồi chỉ một tuần lễ sau khi trở lại đơn
vị chiến đấu, bạn tôi đã đền xong nợ nước.
Vì nhu cầu công vụ, trong thời gian bảy năm
làm lính kiểng ở Sài Gòn, tôi có nhiều dịp vào Bộ Tổng Tham Mưu, Phòng Nhứt,
Trung-Tâm Khai-Thác An-Bài Điện Tử, Trường
Sinh-Ngữ Quân-Đội, Bộ Quốc Phòng, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, Cục
Tâm-Lý-Chiến, Bộ Ngoại Giao. Những văn nghệ sĩ quân đội mà tôi có dịp làm việc
chung đơn vị là Duy Năng, Tạ Tỵ, Hoàng Ngọc Liên, Tô Kiều Ngân , Nguyên Vũ (Vũ
Ngự Chiêu), Nhật Tiến, Nguyễn Đức Quang, Trần Phạm Vũ (Nguyễn Thượng Tiến),
Nguyễn Tấn Lộc. Lộc là tác giả của nhiều bản nhạc hùng ca quen thuộc thường
nghe trên đài phát thanh quân đội như Bình Long Anh Dũng, Trị Thiên Oai Hùng.
Lộc cũng có tài viết phóng sự rất hay và nhanh như máy.
Vì đơn vị tôi đồn trú trong địa phận BKTĐ,
sau Tết Mậu Thân, mỗi tuần một lần, tôi được phân công phải tham dự một toán
tuần tiểu hỗn hợp của Quân Vụ Thị Trấn với sự góp mặt của Quân Cảnh và Cảnh
Sát. Xe Jeep của toán tuần tiểu chạy qua những đường phố Trần Quốc Toản, Trương
Minh Giảng, Lý Thái Tổ, Nguyễn Tri Phương, thỉnh thoảng dừng lại xét hỏi những
người đáng khả nghi. Đêm Sài Gòn giờ giới nghiêm lặng lẽ chịu đựng bất trắc.
Ống liên hợp máy liên lạc truyền tin sè sè âm thoại. Ánh đèn điện hắt hiu soi
lòng đường phố vắng. Người lính thao thức băn khoăn cho thân phận và quê hương,
thầm hỏi cuộc chiến nầy sẽ đi về đâu và cho đến bao giờ.
Nhưng do số phận đưa đẩy, tôi rời Sài Gòn
giữa năm 1973 để đi phục vụ một nhiệm sơ ngoại giao ở ngoài nước và đã mất luôn
lối về kể từ đó. Mặc dù trí nhớ hao mòn theo tháng năm, những kỷ niệm xưa còn
sót lại là phần đã được đãi lọc trong vắt ngọt ngào tinh chất, mỗi lần hồi
tưởng là mỗi lần thấy lòng rưng rưng.
Dù đang sống trong lòng Bắc Mỹ, bất cứ lúc
nào tôi cũng có thể nghĩ đến Sài Gòn. Ngày nắng ấm tôi nghĩ xem có nóng bằng
Sài Gòn không, mẹ già mỗi ngày đi chợ đầu ngõ có đang lau những giọt mồ hôi lấm
tấm không. Ngày đông rét buốt tôi nghĩ đến cái nóng của Sài Gòn ngày nào mỗi
trưa ở sở nằm lên mặt bàn làm một giấc. Mưa gió mù
trời sao tôi không thấy vui như những ngày tôi lội lõm bõm và tắm mưa ngoài
đường phố Sài Gòn. Trăng chênh chếch trên bầu trời vào một đêm lái xe đi làm về
chỉ gợi nhớ một vầng trăng Sài Gòn lung linh soi gác trọ. Ngồi nhà hàng Tây
uống một chai bia ướp lạnh, tôi nhớ thay bàn nhậu quán vỉa hè Sài Gòn xôn xao
tiếng nhai chóp chép hòa lẫn tiếng nói cười ồn ào, thỉnh thoảng lại chêm năm ba
tiếng chửi thề khoái trá. Quả thật ngày tháng cũ đã qua, nơi chốn cũ đã xa, còn
chăng là những bài thơ, bài nhạc ru hồn:
Sài Gòn ơi, tôi đã mất người trong cuộc
đời... Sài Gòn ơi, thôi đã hết thời gian tuyệt vời... Giờ còn đây, những kỷ
niệm sống trong tôi, những nụ cười nát trên môi… những giọt lệ ôi sầu đắng…
Vĩnh Biệt Sài Gòn, bài hát của Nam Lộc, giọng ca Khánh Ly làm não lòng bao nhiêu
người Sài Gòn lưu vong.
Sài Gòn ơi, mùa nắng ấm còn vương trên
đường?... Đường ngày xưa, mưa có ướt ngập lối người về?... Rồi mùa thu, lá còn
đổ xuống công viên, bóng người còn bước nghiêng nghiêng hay đang khóc thương
cho người đi…
Tôi muốn có, muốn nghe tất cả những bài thơ, bài nhạc nói lên tâm
tư sầu lắng thương nhớ Sài Gòn. Tôi vụng về ăn nói, bày tỏ cảm nghĩ trên giấy
cũng khó đối với tôi; thôi thì hãy nghe và hãy đọc thơ và nhạc của người vì vần
điệu vốn dễ thấm nhập rung cảm.
Tôi giờ như con thú hoang lạc đàn... Từng
ngày qua, từng phút sống quên thời gian… Kiếp tha hương… lắm đau thương… lắm
chua cay… tôi gọi tên em mãi thôi…
Thôi thì hãy bắt chước mọi người tâm nguyện
rằng một ngày đẹp trời nào đó, tôi sẽ về Sài Gòn, dù chỉ một lần, trước hồi
chung cuộc của đời:
Sài Gòn ơi, tôi xin hứa rằng tôi trở về... Người tình ơi, tôi xin giữ trọn mãi lời thề…. Dù thời gian
có là một thoáng đam mê, Phố phường ngập ánh sao đêm, nhưng tôi sẽ không bao
giờ quên…
Trong tập hồi ký
có tựa đề Sài Gòn Et Moi của Jean Marie Mérillon, cựu đại sứ cuối cùng của Pháp
tại Việt Nam Cộng Hòa, ông viết:
Lúc phi cơ xoay qua một độ nghiêng,
lấy hướng qua Bangkok , tôi nhìn xuống Sài Gòn lần chót. Tự nhiên trong lòng
tôi dâng lên một niềm ngậm ngùi thương tiếc tất cả những gì đang xảy ra dưới
đất. Tôi như người bại trận, hay nói cách khác, tôi xin được làm bạn với người
bại trận, một người bạn đã không chia xẽ mà còn bắt buộc Việt Nam Cộng Hòa phải
gánh chịu hết tất cả ... trong những ngày sắp tới.
Việt Nam và tôi có rất nhiều kỹ niệm,
có quá nhiều quan hệ mật thiết suốt đời không phai lạt. Sống ở Việt Nam lâu
năm, tôi cảm thấy thương xứ sở nầy. Tội nghiệp cho họ, họ có thừa khả năng dựng
nước, nhưng cái quyền làm chủ quê hương đã bị các cường quốc chuyền tay nhau
định đoạt. Tôi xin lỗi người Việt Nam . Tôi đã làm hết sức mình nhưng không cứu
vãn được nền hòa bình cho dân tộc Việt. Vĩnh biệt Sài Gòn, Sài Gòn vẫn hồn
nhiên với những mạch sống dạt dào ơn nghĩa, một khi đã chọn bạn hữu thâm giao.
Năm 1979, Đại sứ Võ văn Sung có thư mời
tôi trở lại thăm Sài Gòn. Tôi từ chối với lý do không quen với cái tên Hồ chí
Minh. Sài Gòn đã mất, tôi trở lại đó thăm ai?
Cám ơn ông Mérillon, tuy không phải là
người Việt, nhưng có cùng cảm nghĩ và đã chia xẻ với chúng tôi niềm đau mất mát
Sài Gòn yêu thương không bao giờ quên trong suốt cuộc đời còn lại./.
Phan Hạnh, Toronto.