Một Người Việt Thầm Lặng
Phan Hạnh
Tôi gọi anh là một người bạn cũ vì
tôi quen biết anh từ lâu lắm rồi, từ khi đất nước chưa thay ngôi đổi chủ. Chắc
cũng đã bốn mươi năm. Phải, bốn mươi năm là một quãng thời gian dài; có nhiều
cuộc đời còn ngắn hơn thế, nhất là trong thời chiến tranh.
Tháng 5 năm 1968, giữa lúc những đám
cháy của trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân qua nhiều đợt chưa hoàn toàn tàn lụi
quanh vùng thủ đô Saigon thì tôi nhận được sự
vụ lệnh đi tu nghiệp. Trong sự vụ lệnh chỉ có tên tôi và hai người nữa. Một
trong hai người đó có cái tên hơi lạ: Hà Kim Giác. Ðến ngày trình diện Trường
Sinh Ngữ Quân Ðội thì tôi gặp anh. Anh có dáng người cao lớn khỏe mạnh, mày
rậm, râu hàm lún phún và đi đứng oai nghiêm. Chả bù với tôi và anh Nguyễn Công
Lập, mảnh khảnh yếu đuối trói gà không chặt. Năm ấy, Giác và tôi đều 25 tuổi.
Lập 24. Chúng tôi mặc nhiên bầu anh Giác làm trưởng toán. Anh làm trưởng toán
cũng xứng đáng vì khả năng Anh ngữ của anh hơn hẳn hai thằng chúng tôi. Anh dạn
dĩ đối đáp với huấn luyện viên người Mỹ, chăm chỉ học hành. Giờ giải lao anh
không ngại đến bắt chuyện với họ để thực tập đàm thoại.
Ðầu năm 1969, chưa kịp ăn Tết, ba đứa
chúng tôi ra phi trường Tân Sơn Nhất lên máy bay PanAm đi Mỹ. Nhận thấy Giác
chẳng có thân nhân nào đưa tiễn, tôi hỏi lý do; Giác đáp,
"Tớ chỉ có một mình theo gia đình một bà cô vào Nam. Cô ấy bận
bịu việc buôn bán, tiễn đưa không tiện."
Chúng tôi đến Trường Truyền Tin Bộ
Binh Hoa Kỳ ở Fort Monmouth , bang New
Jersey khi trời còn lạnh cóng tay. Tuy mặc quân phục
mùa đông may bằng nỉ, bên ngoài choàng thêm áo manteau, thế mà chúng tôi vẫn
phải co ro trong cơn gió lạnh. Lần đầu tiên không hút thuốc mà vẫn thở ra
khói, tôi cũng thấy lạ và vui. Nỗi háo hức cho một khóa học mới nơi quân trường
Mỹ khiến cho chúng tôi quên hết nỗi mệt nhọc của một cuộc hành trình
dài vừa trải qua. Giác chứng tỏ là một trưởng toán tháo vát và lanh lợi, đưa
chúng tôi đi làm mọi thủ tục cần thiết để nhập học.
Quân trường Mỹ có chương trình Ngày
Thân Hữu hàng tháng khuyến khích học viên người Mỹ trong lớp làm bạn với một
học viên nước Ðồng Minh và đưa họ đi chơi cuối tuần. Một ông giáo lớp chúng tôi
là ông Tchiavone người Mỹ gốc Ý, một dân chính làm việc giảng dạy trong quân
trường. Ông đón chúng tôi về nhà ông chơi cả một ngày Thứ Bảy. Giác là người ăn
nói dạn dĩ hoạt bát nhất nên mấy đứa con của ông bà Tchiavone cũng bu
theo anh mà hỏi chuyện. Tôi và Lập chỉ đối đáp cầm chừng vì bản tính
rụt rè. Những cuối tuần khác, chúng tôi đón xe buýt đi dạo chơi ở các thành phố
nhỏ gần quân trường là Eatontown và Oceanport. Chúng tôi cũng hay đi mua sắm ở
cửa hàng quân đội PX (Post Exchange) mua quà giá miễn thuế để đóng thùng gửi về
cho người thân ở quê nhà.
Một buổi sáng, ông huấn luyện viên
Tchiavone vào lớp và báo cho chúng tôi hay tin Hồ Chí Minh vừa mới chết. Ông hi
vọng chiến tranh Việt Nam
sẽ kết thúc sớm. Giác giơ tay lên xin phát biểu ý kiến. Anh nói ông Hồ chỉ là
một lãnh tụ bù nhìn chứ không có thực quyền. Anh nói anh không nghĩ là chiến
tranh Việt Nam sẽ kết thúc
sớm do ảnh hưởng của cái chết của ông Hồ. Anh nói chính trị bộ của CSBV còn sắt
máu và hiếu chiến hơn và chiến tranh Việt Nam sẽ tàn khốc hơn. Ông Tchiavone
cám ơn sự nhận xét của anh trong khi các học viên người Mỹ đều tỏ vẽ lo ngại vì
không ai biết mình sẽ được gởi đi phục vụ chiến trường Việt Nam ngập tràn
lửa đạn.
Khóa học của chúng tôi gồm hai giai
đoạn. Sau giai đoạn học lý thuyết ở Fort Monmouth, New Jersey, chúng tôi lên
đường đi đến thành phố Nữu Ước, quận hạt Queensborough, nơi có một phim trường
lớn của quân đội Mỹ để học giai đoạn hai bằng cách thực tập (On The Job
Training). Giai đoạn hai này vui hơn nhiều vì có nhiều lần công tác, chúng
tôi được thực tập đi quay phim bằng trực thăng hoặc được mặc thường phục lội bộ
qua các quận hạt thuộc thành phố Nữu Ước để chụp ảnh. Ðến cuối tuần lại càng
vui hơn. Giác may mắn "bắt cặp" với một quân nhân Mỹ tên Bill Miller
quê quán ở Buffalo nên được thăm thác Niagara Falls nhiều lần
trong khi Lập và tôi chưa được đi xem thác lần nào. Tôi theo một anh bạn Mỹ gốc
Do Thái về nhà cha mẹ của anh ta ở ngay trên đường số 5 nhìn xuống Central
Park quận hạt Manhattan, cho nên cũng chỉ được đi thăm viếng những
danh lam thắng cảnh quanh quẩn trong thành phố mà thôi. Lập cũng không khá gì
hơn, theo một anh Mỹ về quê anh ta ở Pittsburg
bang Pennsylvania ,
một thành phố kỹ nghệ lọc thép không mấy hứng thú.
Mãn khóa, chúng tôi được nghỉ phép
hai tuần lễ trên đất Mỹ trước khi về nước. Tôi và Lập nhất định phải đi xem
thác một chuyến cho biết nên theo Giác. Lúc ấy tôi cũng chưa biết lý do tại sao
Giác chỉ đi Buffalo
chơi mỗi khi có dịp mà không đi đâu khác. Bây giờ có hai tuần phép, Giác cũng
muốn ở Buffalo
mà thôi. Sau khi đã được toại nguyện xem thác Niagara Falls, tôi lấy vé máy bay
đi San Francisco rồi từ đó đáp máy bay nhỏ đi đến thành phố Fresno để thăm một
đứa em họ đang học đại học ở đó theo học bổng USAID. Từ đó, tôi không còn gặp
lại Giác, kể cả sau khi tôi đã về nước. Tôi liên lạc với Lập đang làm việc
trong Cục Tâm Lý Chiến để hỏi thăm về Giác. Lập cũng không biết. Lập nói sau
khi xem thác, Lập đi Hoa Thịnh Ðốn để
thăm một người chú họ là một vị thiếu tướng hiện đang sống lưu vong ở
đấy. Lập cho biết dường như Giác vì
chẳng có ai là thân nhân ở Mỹ nên đã theo
Bill đi du lịch bên Canada
suốt hai tuần phép đó. Tôi và Lập đoán Giác sau khi trở về chắc đang phục vụ
tại một đơn vị nào đó trên bốn vùng chiến thuật. Và cái tên Hà Kim
Giác cũng phai dần trong tâm trí tôi.
Thế rồi ngày đứt phim tan hàng
30-4-1975 xảy ra; số phận dong ruỗi đưa tôi đến thành phố Toronto này. Tôi xin được việc làm ngay
cho một công ty nhỏ trên đường Queen St. gần
ngã tư University Ave.
có trạm xe điện ngầm Osgoode nên đi làm rất tiện. Tuy vậy, nơi tôi
trú ngụ là chung cư số 50 đường Stephanie; tôi chỉ cần đi bộ năm phút rồi băng
qua đường Queen là đến sở làm.
Một hôm, khoảng ba tháng sau khi
tôi đến Toronto ,
tôi đi làm về mở hộp thư thì nhận được một phong bì thư đề tên tôi. Mở thư ra,
tôi thấy một ngân phiếu 200 Gia kim đề đúng tên tôi. Trong thư có kèm một
mảnh giấy với duy nhất một hàng chữ viết bằng Anh ngữ, "Please accept
it as a token of our old time friendship." Tôi ngẩn ngơ nghĩ nát óc nhưng
vẫn không thể đoán nó là của ai. Tôi chỉ có một vài người bạn Mỹ,
nhưng đây là ngân lệnh của ngân hàng Toronto Dominion nên không có tên
người gởi. Lúc bấy giờ lương của tôi chỉ có 160 Gia kim một tuần; món quà tiền
mặt 200 đồng không phải là nhỏ. Tôi nghĩ ngợi mãi và phân vân không biết có nên
mang ngân phiếu đó đi lãnh tiền hay không. Giữ nó cả tháng, sau cùng tôi thấy
nên bỏ vào trương mục tiết kiệm của tôi để có lời, dù tiền lời chẳng đáng bao
nhiêu.
Bốn năm sau, tôi vẫn còn làm ở công
ty đó và đã lên chức cai. "Production Department" của công ty tôi có
bốn phân bộ sản xuất: Photographic Reproduction Section (Phòng Phim Ảnh), Microfiche
Section (Phòng Vi Phim), BluePrint Section (Phòng Sơ Ðồ) và Printing Section
(Phòng In). Tôi trông coi phân bộ Phim Ảnh gồm tám nhân công vừa
người Canada
vừa di dân. Trong số thợ gốc di dân có một anh trẻ độ 24 tuổi người Nam
Dương gốc Hoa.
Một ngày Xuân đẹp trời nọ, vào khoảng
11 giờ sáng, tôi đang ngồi ở bàn giấy để viết các tờ lệnh việc (Work Order) ghi
ra các phần vụ nào cần phải làm những gì. Cô thư ký bàn tiếp tân tên Katie từ
ngoài đi vào cùng với hai người đàn ông cao lớn mặc đồ suit như các nhân viên
rao hàng bên "Sales Department" của công ty. Katie gọi tôi và nói có
hai nhân viên công lực muốn gặp tôi. Tôi đứng dậy tiếp họ, lòng phân vân không
biết mình có làm gì nên tội. Một người bước đến gần tôi; người kia vẫn đứng chỗ
cũ cách xa chừng năm thước. Tôi nhìn ông thám tử cảnh sát ngờ ngợ. Ông ta cũng
nhìn tôi chăm chăm. Ông ta thò tay vào túi áo trong móc ra tấm huy hiệu cảnh
sát bằng kim loại đưa cho tôi xem và hỏi, "Is there any member of your
personnel named Edward Soetanto?" Tôi trả lời là có. Viên cảnh sát hỏi tôi
là Edward hiện có mặt ở đây không. Tôi đáp có. Viên cảnh sát bảo muốn gặp
Edward. Tôi nói anh ta đang làm việc trong phòng tối. Viên cảnh sát vẫn nghiêm
mặt bảo tôi, "Go get him." Tôi bảo hắn chờ tôi một chút rồi bấm máy Intercom
gọi Edward ra có việc. Lúc bấy giờ viên cảnh sát đứng phía sau mới tiến lên.
Khi gã thợ Edward Soetanto người Nam Dương gốc Hoa vừa từ phòng tối bước ra
bằng cánh cửa xoay (revolving door) và còn đang nheo mắt vì chói nắng sáng từ
cửa sổ lớn tầng ba hắt vào, hai viên thám tử nhanh nhẹn móc còng số 8 ra còng
tay Edward lại. "You are under arrest!", một người nói.
Viên thám tử nói chuyện với tôi lúc
nãy bảo người đồng sự của mình hãy đứng chờ vì anh ta muốn nói chuyện với
tôi.
Hắn móc túi lấy ra một tấm danh thiếp đưa cho tôi và hỏi tôi tan sở lúc mấy giờ. Tôi bảo bốn giờ rưỡi. Hắn hỏi tôi gọi cho hắn trước năm giờ được không, tôi bảo được. Hắn dặn hãy gọi hắn ở số điện thoại ghi trong danh thiếp.Tôi đồng ý.
Khi họ đi rồi tôi mới nhìn tấm danh thiếp thấy ghi tên Jack Hakim, Investigator, RCMP Immigration Task Force. Thì ra thằng Edward bị bắt vì hắn là di dân nhập cảnh lậu. Ông chủ công ty là Ron Davis từ văn phòng ông ta đến trước mặt tôi và nói, "Anh là di dân hợp pháp có đầy đủ giấy tờ hợp lệ chứ?" Tôi bảo ông khỏi lo vì tôi di dân từ Việt
Chiều hôm ấy, sau khi về đến
nhà, đúng hẹn trước 5 giờ, tôi hồi hộp gọi điện thoại cho Jack Hakim.
- May I speak to Jack, please.
Tôi giật mình khi nghe từ đầu giây
bên kia giọng nói tiếng Việt trả lời:
- Giác đây. Hà Kim Giác. Còn nhớ tớ
chứ?
Tôi ú ớ:
- A...ơ... Giác cùng đi tu nghiệp với
mình năm 69 đó hả?
- Ðúng!
- Trời! Bất ngờ quá! Không thể
ngờ!
- Thế cậu không nhận ra tớ hở?
- Không! Làm sao mình có thể nhận ra
được cậu. Cậu thay đổi nhiều quá. Mình cứ tưởng cậu là một ông Tây gốc Ấn Ðộ
hay gốc Thổ Nhĩ Kỳ nào.
- Thế lúc cậu nhận cái "bank
draft" hai trăm đô của mình gửi, cậu không biết à?
- Trời ơi! Thì ra cậu gửi cho
mình!
- Ừ. Một chút quà thôi. Tớ thì biết
cậu đến Toronto
ngày nào, ở đâu, làm gì nữa.
- Thế thì chết thật. Hoá ra cái bổn
mạng của mình là ở trong tay cậu. Cũng may là mình chẳng có ân oán giang hồ gì
với cậu cả.
- Thôi. Mình nói chuyện nhiều qua phôn
không tốt. Thứ Bảy này mình gặp nhau có được không?
- Ðược chứ.
- Cậu vẫn còn ở địa chỉ cũ?
- Cậu bảo mình đang ở đâu và làm gì
cậu cũng biết, thế sao lại còn hỏi?
- Hey! Don't give me a hard time,
buddy!
- O.K., O.K. ! Ðùa chút chơi vậy
mà!
- Thì tớ cũng đùa với cậu thôi.
Sorry.
- Thưa, tôi không dám đùa với ông
cảnh sát.
- Knock it off, please... And do me a
favour. Never mention to anybody that I am a policeman. You got that?
- Yes, Sir!, tôi làm giọng lính quân
trường trả lời thượng cấp.
- Thế thì sáng Thứ Bảy này lúc 8 giờ
cậu đứng trước cửa building nhà cậu; tớ sẽ xách xe đến pick up. O.K.?
- As you said so, Sir!
Ðúng hẹn, tôi đứng trong lobby
building chờ sẵn thì Giác lái xe đến, một chiếc Buick Skylark màu xanh đậm bóng
mới. Tôi cố nhìn Giác để tìm những nét quen thuộc xưa nhưng thật khó mà nhận ra
một người bạn cũ. Giờ đây Giác đẫy đà hơn, để râu nhiều hơn, tóc xoắn hơn xưa,
không biết là có đi tiệm uốn không, và nước da trắng hồng ra.
Giác đưa tôi về nhà anh ta ở vùng Brampton , một ngôi nhà
khang trang nằm trên một con đường cong ngõ cụt cạnh một mảnh rừng
thưa nhỏ. Vào đến nhà, Giác gọi vợ và hai con ra giới thiệu và chào khách. Vợ
Giác người Canada da trắng; hai đứa con 8 tuổi và 6 tuổi của Giác hoàn
toàn không còn nét gì là Việt Nam. Chúng nó dạn dĩ tự nhiên và chẳng lộ vẻ gì
khúm núm bẽn lẽn trước mặt người lạ. Chúng tôi ăn sáng xong, Giác mời tôi đi
theo vào phòng làm việc để kể lại cho tôi nghe chuyện của Giác kể từ
mười năm về trước. Sự thật phơi bày, tôi mới biết những ngày ấy Giác thường hay
theo Bill đi Buffalo là để cùng nhau đến Toronto
dò hỏi tin tức xin ở lại. Thì ra Giác không hề trở về nước sau lần đi
phép cuối khoá tu nghiệp. Giác đã ở lại Canada, kết hôn, đi học lại, lấy
bằng cử nhân môn hình sự học và đầu quân vào Lực Lượng Cảnh Sát Hoàng Gia
theo sự khuyến khích của người anh vợ vốn cũng là một cảnh sát RCMP. Giác ra
trường năm 1975, vừa kịp lúc làn sóng người tị nạn Việt Nam bắt đầu đến Canada .
Kể xong chuyện mình trong mười năm
qua, Giác trầm ngâm hỏi tôi:
- Tớ hỏi thật điều này và tớ cũng
mong cậu trả lời thành thật. Cậu có lên án hành động đào ngũ của tớ không?
Tôi lựa lời đáp:
- Về mặt lý thì có; nhưng về mặt tình
cảm thì không. Vả lại, mình không muốn phán đoán quyết định của bạn mình. Mình
tôn trọng sự lựa chọn của bạn.
- Cậu không khinh bỉ tớ chứ?
- Sao lại khinh bỉ?
- Vì tớ hèn nhát đào ngũ.
- Nhiều khi cần có can đảm mới
hèn nhát được đấy. Cậu hẳn không quên vụ Muhammad Ali từ chối nhập ngũ năm 1967
chứ? Ông thà bị bỏ tù hơn là tuân theo lệnh động viên trái với lương tâm và
niềm tin của ông. Ngay cả Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ còn phải nhượng bộ ông và
tuyên bố ông vô tội. Ông được công chúng ngưỡng mộ và kính trọng hành động và
quyết định can đảm đó của ông.
- Tớ hiểu ý cậu muốn nói gì rồi. Cám
ơn cậu đã hiểu tớ.
Nhìn ra cửa sổ trầm ngâm thêm một lúc
nữa, Giác hỏi:
- Cậu có biết tin tức gì về thằng Lập
không?
- Thằng Lập chết rồi. Năm 1972. Chiếc
trực thăng chở phái đoàn báo chí trên đường từ Saigon
đi An Lộc trúng B.40 của Việt Cộng rớt cháy ở Xa Cam. Phi hành đoàn cùng sáu
phóng viên chiến trường không ai sống sót. Mình xem tin tức báo hằng ngày mới
biết. Sau đó mình có chạy vào đơn vị của Lập để hỏi cho biết rõ thêm thì quả
đúng như vậy.
Giác nghiến răng, cằm bạnh ra, hai
bàn tay nắm chặt lại. Giác nói như nói với chính mình, giọng vừa buồn
bã vừa tức giận:
- Gee! It could have been me had I
returned! Those Viet Cong bastards ! I hate them!
Thấy Giác đang xúc động mạnh, tôi
không nói gì. Giác cúi đầu rơm rớm nước mắt nói:
- Bố mẹ tớ cũng bị chúng giết ở ngoài
Bắc.
Thì ra là vậy. Giác một thân một mình
đã lâu, âm thầm lặng lẽ chôn kín tâm tư. Tôi chỉ biết nói mấy tiếng
"I'm sorry". Thật tình trước đó tôi cũng không biết là Giác đào ngũ.
Người bạn Mỹ tên Bill ở Buffalo cùng lớp huấn
luyện tu nghiệp với chúng tôi sau khi mãn khóa nhận được lệnh đi phục vụ ở Việt
Nam nên hắn mới nói với Giác
ý định của hắn muốn trốn sang Canada .
Hắn bảo hắn không muốn chết vô ích trong một cuộc chiến tranh vô nghĩa lý. Bill
bảo hắn biết ở Canada
có những tổ chức chủ hòa sẵn sàng đứng ra tiếp nhận và trợ giúp dân Mỹ từ chối
lệnh động viên và trốn quân dịch. Bill
rủ Giác theo và Giác nhận lời. Giác được một đôi vợ chồng già đơn chiếc người Canada nhận làm
con nuôi.
Hôm ấy tôi ở lại nhà Giác ngồi tắm
nắng bên cạnh hồ bơi ở sân sau, nhâm nhi vài chai bia lạnh. Trước mặt người thứ
ba, Giác không bao giờ nói tiếng Việt với tôi. Hai người Việt rành tiếng Việt
mà nói chuyện với nhau bằng một thứ ngôn ngữ khác hơn tiếng mẹ đẻ của mình;
việc đó có vẻ khó coi hay kệch cỡm, nhưng tôi cũng phải chấp nhận vì tôi hiểu
Giác đã quen sống và đã quen nghĩ như một người Canada. Ngoài ra còn có vấn đề
tế nhị là giữ phép lịch sự tránh cho người không nói và không hiểu tiếng Việt
khỏi cảm giác bị gạt bỏ ra ngoài cuộc nói chuyện.
Tôi hỏi Giác có biết còn ai
khác ở Toronto
có cùng hoàn cảnh như Giác không. Giác trả lời là có, nhưng Giác không có giao
tiếp với họ. Giác cũng không hề liên lạc với bất cứ Việt kiều nào ở Canada , mặc dù Giác biết số sinh viên Việt Nam du học cũng
khá nhiều kể cả nhiều lần chạm mặt họ trong thư viện hay ngoài phố.
Ðưa tôi về, Giác nhắc lại lời yêu cầu
là tôi đừng bao giờ nói cho ai biết về hành tung của Giác. Tôi bảo Giác bỏ tôi
xuống phố Tàu Spadina vì tôi cần mua sắm một ít thức ăn và vài món đồ dùng.
Giác dặn tôi giữ liên lạc và gọi Giác bất cứ lúc nào tôi có việc cần. Tôi hứa
giữ lời nhưng tôi cũng không muốn làm phiền bạn bè dù có đôi lần tôi gặp cảnh
khốn khó. Tuy nhiên mỗi lần dọn nhà và thay đổi số phôn hay địa chỉ, tôi đều
thông báo cho Giác biết.
Nhưng sau đó, chúng tôi ít có dịp gặp
nhau vì Giác thường xuyên đi công tác xa. Giác đi công tác ở Ottawa ,
Vancouver , và
cả Hà Nội hai lần. Thời gian trôi qua, ai ai cũng bận rộn lo cho cuộc sống
riêng của mình. Ðến một hôm Giác gọi tôi báo tin là vợ chồng Giác đã ly dị.
Giác đã dọn ra ở nhà riêng ở Milton .
Tôi hỏi địa chỉ và lái xe đến thăm Giác. Nhà mới xây, đồ đạc chưa sắm nhiều nên
trông trống trải. Một phòng chứa toàn dụng cụ máy móc tạp thể dục. Nhà không có
người đàn bà nên không thể nào vén khéo. Nhưng trong tủ lạnh lúc nào cũng sẵn
những lon bia. Giác hỏi tôi:
- Sao? Cậu thấy nhà này được
không?
Tôi đáp:
- Nhà thì được lắm nhưng "nhà
tôi" của cậu đâu?
Giác ngẩn người ra một lúc mới hiểu ý
tôi muốn nói gì. Giác cười đáp:
- Nhà tôi đã xa tôi và bây giờ tôi ở
nhà một mình.
Tôi khen:
- Giỏi. Cậu còn nói tiếng Việt giỏi
lắm!
- Thôi đi ông!
- Bây giờ cậu tính sao? Lại sống độc
thân à?
- Biết đâu mà tính. Mà tớ cũng chẳng
muốn tính gì nữa cả. Mệt lắm rồi. Xem nào, năm nay chúng mình đã trên 60 tuổi.
Thằng con trai của tớ cũng đã 24 tuổi rồi. Nó cũng nối gót bố nó nên vào cảnh
sát rồi. Con gái tớ 22, làm việc cho Sở
Thuế Canada .
Cậu không có trốn thuế chứ?
- Tôi đi làm lương ba cộc ba đồng chứ
có buôn bán gì hay làm ăn phạm pháp gì mà trốn thuế được hở ông?
- À! Nhắc đến vụ trốn thuế tớ mới nhớ
có vụ này thú vị lắm. Nhưng khoan đã. Ðể tớ gọi pizza rồi chúng mình vừa nhậu
vừa nói chuyện.
Giác nhấc điện thoại gọi pizza. Tôi
phụ Giác một tay ráp cái bàn gỗ mua ở IKIA. Mười lăm phút sau, chuông cửa reo;
Giác bước ra nhận một hộp pizza và một hộp cánh gà chiên. Hai chúng tôi cảm
thấy như sống lại tuổi thanh niên tự do phóng túng. Vừa ăn uống, tôi
nhắc:
- Cậu nói có chuyện thú vị thì kể
đi.
- Tớ vừa mới bắt được một thằng Việt
Cộng.
Tôi há hốc:
- Cái gì?
Thấy vẻ ngạc nhiên của tôi, Giác kể
tiếp:
- Gọi nó là cựu Việt Cộng là đúng
hơn. Tên này trước đây là thiếu úy bộ đội Bắc Việt. Sau 75, hắn thấy người ta
vượt biên đi tị nạn đến Hồng Kông dễ quá nên hắn cũng bỏ đơn vị rồi xuống ghe ở
Quảng Ninh đi. Ghe hắn ghé vào đảo Hải Nam được dân địa phương trên đảo
cho lương thực nước uống đầy đủ rồi đi tiếp đến Hồng Kông. Trong mấy năm sống
trong trại tị nạn, hằng ngày hắn được ra ngoài làm việc phụ bếp trong một nhà
hàng Tàu. Hắn học nói tiếng Quảng Ðông nhanh lắm, chắc là còn nhanh hơn tớ học
tiếng Anh. Sang đến Toronto ,
hắn tránh không muốn người ta biết hắn là người Việt vì hắn sợ bị lộ cái gốc
Việt Cộng đào ngũ. Hắn lại tiếp tục làm nghề cũ là nghề nấu bếp nhà hàng Tàu.
Sau mấy năm dành dụm, hắn hùn hạp với một gã người Tàu khác ra mở nhà hàng
riêng bán các món ăn vừa Tàu vừa Việt. Làm ăn nhà hàng đã khấm khá mà hắn chưa
chịu an phận. Hắn muốn giàu nhanh nên dính líu vào một tổ chức đưa di dân lậu
từ Hoa Lục đến Canada .
Giới trồng cỏ rất thích thuê những di dân lậu này vì nếu họ có bị bắt thì họ sẽ
bị dẫn độ trở về Hoa Lục là huề.
Giác kể tiếp:
- Cậu biết không, một thằng lính Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa đào ngũ giả làm dân Canada là tớ và một thằng lính Cộng
Sản Bắc Việt đào ngũ giả làm dân Tàu là hắn gặp mặt nhau nói chuyện thú lắm.
Hắn cứ tưởng tớ là khách hàng quen nên tiếp đãi tớ ân cần lắm. Tớ giả vờ hỏi
hắn chuyện này chuyện nọ cho vui nhưng thực ra cảnh sát đã theo dõi và biết hết
mọi chuyện làm phi pháp của hắn. Thú vị là ở chỗ tớ thì biết hết tẩy của hắn mà
hắn thì không hay biết. Một cộng tác viên da đen của cảnh sát còn dụ được hắn
mua súng lậu khiến cho tội của hắn nặng thêm khi bị bắt.
Tôi đùa, "Vậy là cậu đã chuộc
được tội đào ngũ rồi đó."
Giác có vẻ hài lòng về câu nói của
tôi nên vui vẻ kể tiếp:
- Ngoài ra tớ cũng có góp công trong
việc trục xuất một tên tham vụ tòa đại sứ Việt Cộng ở Ottawa
về tội hăm dọa và tống tiền công dân Canada gốc Việt nữa đấy.
- "Giỏi", tôi nói,
"Chuộc hết tội rồi giờ còn lập thêm công nữa. Cậu được huy chương
chứ?".
- Huy chương thì không nhưng bằng
khen thì có. Cậu thấy chuyện đời của tớ cũng ly kỳ đấy chứ nhỉ. Cậu hay viết
lách, cậu lấy chuyện của tớ viết ra thành một quyển tiểu thuyết cũng được đấy.
Nên đặt cái tựa là gì nhỉ? Hay là Một Người Việt Thầm Lặng? Cậu nghe có được
không?
- Ðược lắm. Có Người Mỹ Thầm Lặng rồi
thì bây giờ có thêm Người Việt Thầm Lặng.
- Ê! Nhưng mà đợi khi nào tớ chết rồi
hẵn viết nhé.
- Cậu khoẻ mạnh phây phây thì chết
thế chó nào được, trong khi tôi đây hom hem yếu đuối sẽ đi trước cậu là cái
chắc.
- Chẳng biết đâu được ông ơi! Một khi
số đã tới thì tránh sao cho khỏi. Tớ làm một hai năm nữa cho đủ 25 năm rồi tớ
cũng xin nghỉ để đi chơi.
Sau khi đã có đủ thâm
niên hơn 25 năm phục vụ, Giác xin giải ngũ để cùng với người anh
vợ cũ điều hành một công ty chuyên cung cấp dịch vụ bảo vệ an ninh
cho các cơ sở thương mại lớn. Cuộc sống của Giác coi như rất sung túc và thoải
mái về mọi mặt. Ngoài ra Giác cũng có đưa cho Bill Miller một trăm ngàn để
nhờ Bill đầu tư; số tiền đó chắc bây giờ cũng đã tăng hơn gấp đôi.
Nhưng quả là con người có số thật.
Năm vừa qua, Giác cảm thấy mình hay mệt bất thường và không đủ sức tập thể dục
như trước. Kết quả thử máu cho thấy Giác bị bệnh hoại huyết. Từ đó trở đi, tình
trạng sức khoẻ của anh suy nhược dần; mọi phương thức chữa trị trong bệnh viện
hầu như vô hiệu. Một lần tôi vào thăm, Giác xanh xao cảm động nắm lấy tay tôi,
đôi mắt buồn bã nhìn tôi không nói. Năm ngón tay gầy guộc của Giác trông như
những cái ngoe cua ngọ nguậy một cách yếu ớt. Râu của anh dài ra không cạo. Tôi
hỏi anh trong người cảm thấy thế nào, anh đáp, giọng yếu ớt:
- Tớ cảm thấy mệt lắm. Người như
không còn sinh lực.
- "Vậy thì nằm nghỉ đi",
tôi nói.
- Tớ cảm thấy trong người tớ như có
hai đạo quân đang giao chiến. Quân của tớ hỗn loạn tự tử tập thể bằng cách chĩa
súng vào nhau rồi cùng chết. Quân địch ung dung tiến vào gậm nhấm thân xác tớ
như ăn cỗ. Ban đêm tớ còn nghe tiếng của chúng cười hả hê nữa.
- "Cậu mệt đâm ra nghĩ nhảm.
Thôi lo nằm nghỉ đi", tôi nói.
- Thì giờ an nghỉ tớ sẽ có thật nhiều
sau khi chết. Có cậu vào thăm, tớ muốn nói thật nhiều.
Suy nghĩ một lúc, anh nói tiếp,
"Giá mà mình có anh chị em hoặc thân nhân và được ghép tủy thì may
ra..."
Ðiều anh nói khiến tôi nghĩ đến hai
đứa con anh. Tôi ngại ngùng hỏi:
- Gia đình cũ của cậu có vào thăm
không?
Anh lắc đầu. Ngày xưa có những
cánh tay Canada
dang ra để cưu mang anh. Ngày nay có những bàn tay Canada khác vẫy chào anh vĩnh biệt.
Ba mươi bảy năm trước anh một mình đến đây. Ba mươi bảy năm sau anh cũng còn
lại có một mình. Anh thều thào nói:
Tớ muốn cho cậu xem cái này.
- Cái này là cái gì?, tôi hỏi.
- Cái hộp để trên bàn đó. Cậu mở ra
xem đi.
Tôi mang chiếc hộp đến cạnh giường mở
nắp. Bên trên cùng là một phong bì đựng một xấp ảnh. Ảnh của anh mặc quân phục
oai nghiêm chỉnh tề đang bắt tay với đại tá chỉ huy trưởng Bowell trong
buổi lễ tốt nghiệp. Những tấm ảnh của ba đứa chúng tôi chụp chung với cả
lớp. Những tấm ảnh chụp với gia đình ông huấn luyện viên Tchiavone tử tế hiền
từ. Những tấm ảnh chụp khi ba đứa chúng tôi đi dạo chơi ở Eatontown, ở
Oceanport, ở Nữu Ước. Những tấm ảnh chất chứa và chuyên chở bao nhiêu là kỷ
niệm. Tôi rơm rớm nước mắt. Tôi cũng có một số ảnh kỷ niệm của chuyến đi Mỹ đó
nhưng gia đình tôi đã đốt hết sau ngày 30-4-1975 vì sợ Việt Cộng hạch sách làm
khó dễ. Dưới xấp hình là một tấm thẻ bài, một huy hiệu QLVNCH bằng kim loại,
bảng tên để gắn trên nắp túi áo và một sợi giây nịt quân đội cuộn
tròn. Sau cùng, dưới đáy hộp là một quyển sổ thông hành Việt Nam Cộng Hòa; bên
trong còn kẹp tờ sự vụ lệnh của Bộ Quốc Phòng có tên ba đứa chúng tôi.
Xem các thứ xong, tôi lần lượt
bỏ vào hộp như cũ, lòng bùi ngùi không biết tìm lời gì để nói.
- Cậu giữ đi. Nó chẳng có giá trị gì
với bất cứ một ai khác.
Một tháng sau, Giác vĩnh viễn ra đi.
Trong số mấy chục người đưa đám tang của Giác chỉ có tôi là người Việt duy
nhất. Tôi lẳng lặng bốc một nắm đất rải xuống. Những mảnh đất rớt lên nắp quan
tài của một người bạn mà tôi phải giữ bí mật suốt bao năm. Những hạt đất nhỏ
màu đen xám tức khắc bị những cánh tuyết nhẹ nhàng rơi phủ lên. Khách đưa
tang lần lượt ra về. Thân xác bạn tôi một mình nằm lại lẻ loi trong nghĩa trang
vườn tưởng niệm. Bây giờ cứ mỗi lần lái xe đi ngang qua một tiệm kính Hakim
Optical, tôi lại liên tưởng đến Giác, tên của một người Việt thầm lặng nhưng
lại có mặt ở khắp mọi nơi trên nhiều con đường của thành phố này.
Phan Hạnh
No comments:
Post a Comment