Người
Lính Không Còn Súng
“Rồi có một ngày… sẽ một ngày chinh chiến
tàn…
Trả súng đạn
này… ôi sạch nợ sông núi rồi…”
Chẳng hiểu
tại sao, hắn thích và thường hay hát nghêu ngao một mình bài ca “Giã từ vũ khí”
của nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân. Hắn nghêu ngao hát nó như một ước mơ thầm kín sẽ có
một ngày hắn được giải ngũ để về quê ngoại sống một cuộc đời thanh đạm với ruộng
vườn. Vậy mà kết cuộc khác hẳn. Hắn trả súng đạn này để di tản khỏi quê hương.
Hắn đặt đôi
chân tị nạn mốc vì mang giày trận lâu ngày của hắn đến thành phố này hơn ba chục
năm trước, số lẻ không thèm kể. Đầu mùa đông, tháng cuối năm, Giáng Sinh Trắng,
cả đất trời Toronto đắp chăn tuyết mỏng, người người có vẻ tỉnh như pha, riêng
hắn thì nổi da gà. Lạnh run là phải vì ngày đó hắn còn là một thanh niên tam thập
nhi lập cuộc đời mới bắt đầu từ con số không với tấm thân gầy gò chơi bạo thích
mặc áo sơ mi hở cổ. Đã vậy hắn còn bắt chước làm quân tử Tàu thực vô cầu bảo cư
vô cầu an, ăn chẳng cần no ở chẳng cần yên nên ốm nhom ốm nhách.
Mấy tháng tạm
trú trong trại tị nạn ở Mã Lai Á, hắn làm quen với Ramen, vốn chẳng phải tên của
một chàng hay một ả Mã Lai nào mà chỉ là tên của… mì gói. Ramen ngày hai gói và
một chỗ đặt lưng nằm thì nhiều nhưng ngủ chẳng bao nhiêu, chỉ nhắm mắt để đó,
không biết để làm cái gì. Trong trại tị nạn, riêng tư và yên tĩnh là hai thứ xa
xí phẩm hiếm thấy, hai niềm mơ ước trong cuộc cắm trại dài hạn ngoài ý muốn của
người tị nạn cộng sản.
Tới nơi rồi!
Đám hành khách nhốn nháo cả lên, chưa gì đã chộn rộn lăn xăn lít xít. Phi cơ
đáp sớm trước giờ dự liệu vì trọng lượng khiêm nhường của đám hành khách một
trăm mấy chục mạng người tị nạn Việt Nam nhỏ con nghèo da thịt nhưng giàu mộng
xây đắp tương lai thích làm công việc nào có nhiều ô vơ thai. Chuyến bay đường
dài vậy đó mà hắn có vẻ không mệt nhọc gì vì mê ngó ra ngoài cửa sổ ngắm thiên
đàng một trời đầy sao dưới đất đầy đèn sáng rực. Hắn nói “Xứ gì mà giàu quá trời!
Tối ngủ không chịu tắt đèn.” Hắn mê chân trời mới, một phần khác vì hắn hồi hộp
mừng và nôn nóng đến miền đất hứa nên quên cả mệt.
Xong thủ tục
giấy tờ và khám xét quan thuế, hắn ra khỏi khu ngăn cách một cách tự tin lắm. Có
nhân viên trong ban tiếp đón người tị nạn trao cho hắn một chiếc áo khoác màu
xanh ô liu và một cái nón len có cái núm trên chóp. Người ta còn giúp hắn mặc
áo vào và sửa nón cho hắn. Hắn liếc nhìn bóng mình qua cửa kính, thấy thằng nào
lạ hoắc, na ná như hề Charlot.
Vì chẳng có
thân nhân ở thành phố này, hắn được làm con nuôi của chính phủ. Theo lệnh
“Follow me” của nhân viên tiếp đón, hắn xách túi hành trang nhẹ hững bước hiên
ngang qua cánh cửa kính tự động lịch sự còn hơn người. Hắn bắt liên tưởng đến
hai cánh cổng có rào giây thép gai của Trại Nhập Ngũ Số 3 hắn cũng bước vào một
cách hiên ngang “ngày anh hai mươi tuổi”.
Xe của Sở
Di Trú Canada đưa hắn về tạm nghỉ qua đêm ở một mô-teo gần phi trường. Hắn biết
rằng từ nay, hắn phải tập thể dục đôi cánh tay khi phải nói tiếng Anh. Chẳng hạn
khi nghe nhân viên khách sạn hỏi “Are you cold?”, hắn khoác tay đáp một cách điệu
nghệ “No…” Nhân viên khách sạn thân mật hỏi tiếp “You like Toronto?” Dễ ợt, hắn
đáp “Sure…” “What do you like Toronto about?” À, câu hỏi này mới hóc búa đây vì
phải tìm ý đặt câu trả lời dài. Anh bạn mới này lại chơi khó anh em rồi. Bạn
thích Toronto về cái điểm nào? Trời đất ơi, mới tới chưa đầy một ngày, da gà
chưa lặn thì biết gì mà nói. Ai biểu hắn bảo hắn thích. Hắn đáp bừa: “I like
Toronto because I am free.” Nhân viên khách sạn cười hỏi: “Freezing?” Quỉ thần
ơi, hắn bảo hắn thích Toronto vì hắn được tự do mà cha nội này nghe thế nào lại
bảo hắn thích Toronto vì hắn đông lạnh. Hắn nói thầm trong bụng: “Chắc thằng
cha này định chơi tui!”
Nói tiếng
Anh coi bộ khó rồi đó nha. Nhưng nhằm nhò gì, hắn đã có tự điển bỏ túi của soạn
giả Lê Bá Kông làm bùa hộ mạng. Hắn ước phải chi hắn có thể luyện học chữ mới
như luyện chưởng Thần Điêu Đại Hiệp của Kim Dung thì đỡ biết mấy.
Đêm đầu
tiên trên xứ Cà Na Điên tức Cá Nà Đà tức Gia Nã Đại, vì chưa quen với giờ giấc
mới không ngủ được, hầu như hắn đứng trực canh không công cho mô teo bằng cách
vén màn cửa sổ ngó mông lung cảnh trời đổ tuyết nhè nhẹ bao trùm lên mọi vật
sáng tỏ. Hắn tự hỏi đây có phải là cảnh tiên mà hắn là một chàng tiên tập sự
trong khi bao nhiêu người thân yêu của hắn còn đang chìm đắm trong sự đọa đày của
đám Việt Cộng mang dép râu ở quê nhà.
Sáng hôm
sau, hắn được chở tới Ontario Welcome House (mà với cái bịnh mắc dịch, hắn tự động
dịch ngay là Nhà Chào Mừng Ontario) tọa lạc trên đường York. Hắn được nhân viên
Sở Di Trú đưa hắn tới tận bàn tiếp tân để giao cho bà thư ký. Hai người dân Cà
Na Điên cười cười nói nói với nhau tự nhiên như nước chảy hoa trôi làm hắn thấy
mà thèm. Trước khi rời đi, ông Di Trú còn xây qua hắn nói: “Bye and good luck.
You’re on your own now.” Câu đó có nghĩa là gì lúc đó hắn cũng không hiểu rõ lắm
nên cứ gục gặc nói thánh kìu kèm nụ cười duyên có khi bị con gái mắng “dzô
dziêng”.
Nơi Nhà
Chào Mừng Ontario, hắn gặp lại vài đồng bào yêu dấu. Cũng như hắn, họ tới đó để
được hướng dẫn làm vài thủ tục hội nhập cuộc sống mới. Trước hết là mục điền
đơn và kê khai lý lịch xin thẻ bảo hiểm xã hội, thẻ sức khoẻ, mỗi người được cấp
cho mấy cái vé xe buýt, một tấm bản đồ lộ trình xe buýt TTC, ký nhận một chi
phiếu ba mươi hai đô la tiền trợ cấp hàng tuần của chính phủ. Sau đó, hắn được
giúp làm một tờ rề-zu-mê. Người ta hỏi hắn học hành tới đâu, có tay nghề chuyên
môn gì, có kinh nghiệm gì, đã từng làm những công việc gì…
Hắn bảo hắn
là lính với mười năm thâm niên quân vụ với chuyên môn lặt vặt. Họ bảo nếu hắn
là lính ắt hắn được huấn luyện về võ thuật đánh cận chiến và tự vệ. Hắn cũng
“Yes” bừa mặc dù hắn chỉ được huấn luyện qua loa mấy thế cận chiến và mấy thế
nhu đạo căn bản trong quân trường hơn mười năm về trước và hắn chưa hề đánh lộn
với ai bao giờ. Ngu gì đánh lộn khi hắn biết thua là cái chắc. Hắn sợ đau, sợ
thấy máu chảy, dù người khác đau và chảy máu hắn cũng sợ. Người ta giải thích
cho hắn hiểu rằng ở Canada, chủ chỉ muốn mướn nhân viên có kinh nghiệm. Vì hắn
có kinh nghiệm lính, người ta có ý tìm cho hắn một công việc làm người canh gác
tức gác dan.
Nhân viên
Nhà Chào Mừng Ontario in ra cho hắn mấy cóp-pi luôn, bảo hắn cất để dành đi xin
việc. Xong họ nhấc điện thoại gọi một hồi rồi đưa cho hắn một cái địa chỉ, bảo
sáng ngày hôm sau hắn tới đó sẽ có việc làm. Hắn có việc làm? Hắn không tin ở
tai mình. Hắn mừng quá. Vốn đang mắc bịnh viêm túi (nghèo) và bị đồng tiền ám ảnh,
hắn đánh liều hỏi “How much does the job pay?” và được cho biết mức lương giờ tối
thiểu do tỉnh bang Ontario ấn định là ba đô la một giờ và thường thường việc
làm gác dan trả cao hơn mức tối thiểu.
Sau cùng, họ
giúp hắn tìm một phòng cho thuê để trú ngụ, bảo hắn xuống tầng dưới gặp bà Cúc
để được phát cho một mớ vật dụng cần dùng trong nhà. Vì thính giác của hắn
không được tốt cho lắm do bị mãnh lựu đạn ghim sau vành tai, hắn cứ ngỡ có bà
người Việt nào tên Cúc làm việc ở đây. Đến khi xuống tới nhà kho dưới lầu nhận
đồ dùng gồm một mớ tô chén dĩa muỗng nĩa dao, một cái nồi và một cái chảo cùng
vài ba bộ quần áo cũ, hắn mới biết tên của bà nhân viên là Cook chứ không phải
Cúc. Hắn quảy đống đồ lỉnh kỉnh tất cả được dồn trong một bao ny lông màu đen
bóng trông không giống ai rồi dò đường đón xe buýt tìm tới địa chỉ nhà trọ.
Mất cả giờ
đồng hồ, đổi một chuyến buýt, hai chuyến xe điện ngầm và một quãng lội bộ, hắn
đến đúng địa chỉ nhà trọ. Dò tới dò lui mảnh giấy ghi địa chỉ, hắn thấy đúng rồi
mà vẫn chần chừ chưa dám bước vô. Hắn cứ lê cái bao rác đen (hồi đó hắn đâu có
biết đó là bao để đựng rác) và quảy trên vai gầy một túi hành trang đựng vài bộ
quần áo cứ đi qua đi lại trước cửa, mắt cứ ngó vào qua cửa kính.
Hắn tự nghĩ
hay là phối trí viên Nhà Chào Mừng Ontario ghi lộn địa chỉ rồi chăng. Đây chẳng
có gì là một căn nhà để ở cả, đây rõ ràng là một cửa hàng nằm trên phố chính
đông kẻ qua người lại. Chẳng lẽ xớ rớ mãi như một thằng tứ cố vô thân nơi xứ lạ
(uả mà đúng vậy chớ còn gì nữa), hắn hít hơi lấy can đảm, biết đã tới lúc phải
đem vốn liếng tiếng Anh ba rọi của mình ra dùng, hắn bước vào.
“Yes, may I
help you?” May quá, ông hàng thịt (đúng vậy, đây là một tiệm bán thịt) có bộ
râu mép rậm rạp mau mắn hất hàm lên tiếng hỏi hắn, tay ông vẫn còn lăm lăm con
dao phay. Chắc ông nhầm tưởng hắn là một khách hàng thiếu thịt. Hắn hỏi thẳng,
“You have a room for rent?
“Oh,
Welcome House sent you here, right?” Ông dứt câu bằng một tiếng “rải” mà hắn có
thấy miếng thịt vụn nào văng ra đâu. Hắn chỉ chờ có vậy nên “Yes, yes” lia lịa.
Đó là một
tiệm hàng thịt trong khu phố của người di dân gốc Hy Lạp trên đường Danforth
Avenue gần trạm xe điện ngầm Pape Avenue. Bên trên tiệm thịt có một tầng lầu
thường được gọi là flat ngăn ra ba phòng cho thuê. Những người thuê phòng xài
chung một phòng khách, một phòng tắm, một phòng bếp có đặt bàn ăn với ba cái ghế.
Giá tiền thuê phòng hắn phải trả là hai mươi đồng một tuần, như vậy hắn còn lại
mười hai đồng cho tất cả mọi khoản chi tiêu khác.
Giao chìa
khóa phòng cho hắn xong, Nick, tên ông đồ tể có bộ râu mép rập người Hy Lạp, đứng
trước cửa phòng gần bên cầu thang xòe bàn tay hộ pháp của ông và nói, “You have
to pay me first, you know?” Lúc nãy ông “rải” không văng gì cả, bây giờ ông “nổ”
cũng chẳng thấy miếng miễng nào. Hắn biết đó không phải là một câu hỏi mà là một
câu ra lệnh. Hắn đáp, “I know. I have a cheque. Now I will go to the bank to
get money, then I will pay you, OK?” Nhớ lại cái thuở ban đầu nói tiếng Anh lưu
luyến ấy, hắn xài Ô Kê con gà đen hơi nhiều đâm ra lạm phát.
Nick vui vẻ
chỉ cho hắn một chi nhánh ngân hàng Toronto Dominion Bank xế bên kia đường. Hắn
trút bỏ bao, túi đeo vai xuống sàn nhà lót gỗ trông cũng sạch sẽ bóng láng và
thảnh thơi nhẹ nhõm đi qua ngân hàng. Hắn tiến đến một quầy và chìa cái chi phiếu
ba mươi hai đồng của chính phủ Canada ra và nói “I want to open an account”. Cô
thu ngân viên chỉ dẫn hắn điền phiếu đơn xin mở trương mục. “Endorse it
please”, cô ta nói. Hắn đớ người hỏi “What is endorse?” Cô teller mỉm cười đáp
“Never mind”, xong cô dí ngón tay chỉ lằn ngang bên mặt sau cái cheque và bảo
“Sign here”. Hắn ngoan ngoản làm theo, đầu óc vẫn còn thắc mắc tại sao thu ngân
viên ngân hàng lại gọi là “teller”, chắc họ kể chuyện gì đó cho khách hàng nghe,
à, hay là họ là người đếm tiền.
“Anything
else?”, cô hỏi. Hắn đáp “Yes, I want to cash twenty-two dollars.” Cô cười cười
xong mở ngăn kéo lấy đưa cho hắn hai tờ 10$ và hai tờ 1$. Thế là hắn có đủ tiền
để trả một tuần tiền phòng, còn hai đồng hắn ghé vô siêu thị IGA gần đó để mua
một ổ bánh mì, một nải chuối và một thỏi bơ, đủ lót dạ cho ngày đầu tiên tự lập
nơi xứ người.
Hắn trở về
đưa tiền cho Nick, không quên kèm hai tiếng “Thank you”. Nick có vẻ tội nghiệp
cho một thằng di dân mới còn chân ướt chân ráo bèn gói một miếng gan bò xong
đưa cho hắn và căn dặn: “Give this to George at Room number 201 and tell him to
cook it for you. He’s a very good guy.”
“Cộp cộp cộp”,
hắn gõ cửa phòng 201. Một ông già dễ chừng gần bảy chục tuổi mở cửa bước ra. Hắn
hỏi “Are you George?” “Yes”, ông già chậm rãi đáp. Hắn chìa gói gan bò tươi rói
mát lạnh đưa cho George nói: “Nick told me to give you this to cook for you and
me.” George hiền từ bắt tay hắn. Hắn tự giới thiệu: “My name is Hanh. I rent
this room.” Hắn chỉ phòng 203. “Are you Chinese?”, George hỏi. “No, I’m not
Chinese”, hắn đáp. Có lẽ vì George lãng tai nên nghe hắn không rõ hoặc giả hắn
nói tiếng Anh còn lạng quạng, George hỏi lại: “You are not Chinese?” Hắn đáp
“Yes”. Không ngờ George tỏ vẻ hoang mang và hỏi nữa: “You are Chinese? Ni hou
ma?” Chừng đó trí thông minh của hắn mới làm việc lại một cách bình thường nên
hắn đáp: “No… I’m not Chinese. I’m Vietnamese, ok?” Lại thêm một con gà đen nữa,
vậy mà không có ai bắt đem đi hầm thuốc bắc hết, uổng quá. George cũng “O.K.” nhưng
lắc đầu hết biết thằng người Việt tị nạn này.
Đã hơn sáu
giờ chiều, cũng đã đến giờ cho bữa ăn tối. Hắn theo George xuống bếp, trong lúc
George xắt gan bò, hắn lột củ hành, bào vỏ khoai tây, cắt miếng theo lời
George, xào nấu một lúc thành món rim kiểu Hy Lạp thơm hết xẩy. Đôi bạn mới ăn
với bánh mì ổ no nê. Xong bữa, hắn ngồi nán lại xem Ti Vi một lúc ngắn thì mắt
hắn đã díp lại. Hắn đi tắm vòi hoa sen nước ấm thật đã điếu rồi về phòng ngủ một
lèo cho tới sáng.
Hắn có mặt ở
văn phòng Đồng Minh Bảo An Công Ty (hắn dịch từ cái tên Anh ngữ của người ta là
Allied Security Company) nằm trên đường Javis thật đúng hẹn. Thì ra đây là một
nhà thầu cung cấp dịch vụ gác dan. Sau khi điền đơn xin việc và được phỏng vấn,
hắn được nhận làm việc ngay với mức lương ba đô rưỡi một giờ. Hắn lãnh đồng phục
gồm áo sơ mi màu xanh nhạt có kết huy hiệu công ty, cà vạt đen, quần tây xám có
nẹp, mũ kết, áo khoác ngoài xám, trông như là quân phục sinh viên võ bị West
Point không bằng.
Chỉ có một
món hắn không được phát là đôi giày đen. Người ta bảo hắn phải tự lo liệu. Xui
cho hắn là đôi giày tị nạn duy nhất của hắn chẳng phải loại giày đàng hoàng cũng
chẳng phải màu đen. Hắn thành thật nói với ông quản lý công ty là hắn không có
tiền. Nghe hắn tỏ bày như vậy, ông quản lý có dáng người lực sĩ móc ví lấy một
tờ 20 đô đưa cho hắn. Ông bảo đó là món tiền hiring bonus, tiền thưởng cho nhân
viên mới tuyển vào, và bảo hãy lấy tiền đó mà mua giày. Hắn nhận địa điểm công
tác để bắt đầu ngay từ tối đêm hôm đó.
Hắn hí hửng
về nhà khoe tin mừng với George. George chỉ cho hắn đến ngay tiệm bán đồ cũ của
Salvation Army mà từ hồi còn ở quê nhà, hắn đã biết đến qua cái tên Đạo Quân Cứu
Rỗi. Hắn chọn được một đôi giày da số 9 còn như mới mà giá chỉ có ba đô, còn dư
17 đô tha hồ chi tiêu cho những món cần dùng khác. Bộ đồng phục tuy là cỡ nhỏ
nhưng vẫn còn rộng đối với tấm thân thiếu cân của hắn. Hắn phải mặc độn bên
trong một bộ quần áo nữa, vừa đỡ thùng thình vừa đỡ lạnh.
Đứng trước
gương, hắn trông thấy mình chẳng khác nào một người lính, một người lính của quân
đội không thuộc nước nào cả. Tự dưng hắn cảm thấy lòng buồn rười rượi. Hắn chợt
nghĩ đến thân phận của hắn từng là một người lính thực sự của một quân đội đã
tan hàng trong chiến bại một cách uất ức. Hắn buồn vì bây giờ không phải hắn mặc
quân phục để cầm súng bảo vệ quê hương đất nước khỏi hiểm họa cộng sản. Hắn sẽ
làm người lính không còn súng bảo vệ an ninh cho một cao ốc chung cư sang trọng.
Hắn buồn cũng giống như khi nhìn chữ
“stateless” sau chữ “citizenship” ghi trên giấy chứng nhận thường trú nhân của
hắn. Nó xác định hắn đang là một công dân vô tổ quốc được Canada nhận vào với tư
cách là một người tị nạn chính trị. Hắn buồn cho thân phận mất nước phải sống lưu
vong. Vô tổ quốc? Còn nỗi đau nào to lớn hơn.
Nhiệm vụ của
hắn, một người lính gác không còn súng, là ngồi trực đêm nơi đại sảnh của tòa
cao ốc để kiểm soát sự ra vào của người cư ngụ, ngoài ra còn phải đi tuần tra mỗi
đầu giờ các cầu thang bộ và tầng hầm chứa xe đậu. Hắn phải ghi vào sổ trực mọi
diễn biến xảy ra. Công việc kể ra chẳng có gì là cực nhọc hoặc nguy hiểm. Những
người cư ngụ trong cao ốc này ra vào chào hỏi lại hắn một cách lịch sự. Họ lịch
sự cũng phải vì phần lớn họ là người lớn tuổi và là dân giàu. Họ ăn mặc đẹp đẽ sang
trọng; xe đậu dưới tầng hầm toàn xe đắt tiền. Có mấy chiếc trùm kín vì chủ nhân
đi vắng. Họ bay xuống miền Florida nắng ấm ở vài tháng mới quay về.
Lúc không có
việc, hắn lôi ông Lê Bá Kông trong túi ra tu luyện, cũng phải có một mớ tiếng
Anh lận lưng để kiếm sống nơi xứ người chớ. Khuyết điểm của hắn là sắp xếp ý
nghĩ bằng tiếng mẹ đẻ trước trong đầu rồi tìm tiếng Anh có nghĩa tương đương để
nói. Điều đó có nghĩa hắn luôn luôn bị bịnh dịch hay nói tắt là mắc dịch chớ không
dám gọi là thông dịch viên vì hắn có nói giùm cho ai khác ngoài hắn đâu.
Bịnh dịch
hay tật mắc dịch của hắn nặng lắm. Hắn thấy Miracle Supermarket là tự động hắn
dịch Siêu Thị Phép Lạ, Goodwill Store trở thành Tiệm Thiện Chí, Knob Hill Farms
thành Nông Trại Đồi Quả Nắm. Đó là những tiệm bán thực phẩm và đồ đạc hắn thường
lui tới và cảm thấy thoải mái vì cái không khí bình dân hắn đã quen trong đời.
Lâu lâu máy
thông dịch trong đầu hắn cũng gặp trở ngại, người trong nước bây giờ gọi là “sự
cố” mà lúc mới nghe lần đầu, hắn chẳng hiểu gì. Cái trở ngại là khi bị hỏi bất
ngờ, máy dịch trong đầu của hắn chưa kịp bật lên, thế là hắn trả lời lộn tiếng,
hắn phun ra một câu tiếng Việt cho người Cà nghe, dĩ nhiên là họ chẳng hiểu gì
cả, có khi tưởng hắn mát giây cũng không chừng.
Một buổi tối
nọ, trong lúc hắn đang mãi mê chúi đầu đọc báo thì nghe có tiếng gõ cộc cộc vào
cửa kính. Ngước đầu nhìn lên, hắn thấy một bà da trắng dáng vẻ sang trọng đứng
ngoài cửa. Hắn bấm nút cho cửa tự động mở ra. Bà đi vào và bước đến quầy nơi hắn
ngồi và nói: “I think I’ve misplaced my keys. I’ve no idea where they could’ve
been.” Hắn quính lên đáp: “Đừng lo! Tôi sẽ giúp bà!” Bà Cà trố mắt. Chừng đó hắn
mới chợt nhớ: “Ah oh… I meant don’t worry, I will help you. Sorry.” Hắn lấy
theo chìa khóa “master” và mở cửa căn con-đô cho bà vào nhà.
Lần khác, vào
một buổi sáng chủ nhật, hắn đi làm thêm giờ, không phải ngồi trực biu-đinh sang
mà đi phụ dọn dời văn phòng làm việc cho xếp giám đốc. Xếp biết hắn ốm yếu nên
giao cho hắn công việc nhẹ là bỏ các giấy tờ hồ sơ vô thùng và đóng gói. Xếp dặn
dò xong bỏ đi làm việc khác; hắn một mình ở lại trong phòng đóng gói. Xếp nguyên
là dân chơi thể thao sưu tầm nhiều cúp thưởng. Hắn dùng giấy báo cũ gói và độn
các tượng cúp cẩn thận. Vốn thiếu ngủ từ đêm trước, làm việc một lúc hắn bắt đầu
cảm thấy buồn ngủ cứ ngáp lên ngáp xuống. Thình lình xếp quay lại hỏi: “Hanh,
do you see my briefcase by any chance?” Hắn giật mình đáp: “Nó để ở trên đầu tủ
đó.” Tới lượt xếp: “What did you say?” Hắn ngượng đỏ mặt líu ríu: “Oh, it’s on
top of the file cabinet.” Vừa nói hắn vừa vói tay chỉ cái cặp táp. Xếp có vẻ mừng
vì đã tìm nó trong xe mà không thấy.
Lãnh cái
chi phiếu lương đầu tiên sau hơn một tuần làm việc, hắn có cảm giác như là người
vừa trúng số độc đắc. Hắn đem nó ký thác vô trương mục tiết kiệm, đồng thời mở
thêm một trương mục vãng lai để có thể ký chi phiếu. Hắn tự hứa ăn tiêu tiện tặn
để lo thân và giúp đỡ gia đình vẫn còn kẹt ở quê nhà. Hắn không hiểu tại sao có
nhiều người lành lặn, nói tiếng Anh như gió lại ngửa tay ăn xin giữa lối ông đi
qua bà đi lại. Họ lè phè ngủ ở công viên hoặc co ro nằm trên nắp thoát hơi bên
lề đường.
Lụi hụi đã
tới cái Tết đầu tiên nơi xứ người. Tết gì mà trời phủ đầy tuyết và lạnh quéo
da. Người đồng hương gọi điện thoại báo cho hắn biết cộng đồng có tổ chức hội
chợ và văn nghệ Tết tại hội trường của một trường trung học. Hắn buồn nhớ nhà
quá trời và nghĩ lại thân phận mình bơ vơ nên chẳng muốn lội tuyết đi đâu. Nhưng
chẳng lẽ nằm chết dí ở nhà càng buồn thêm nữa, hắn phân vân. Hắn muốn đến dự để
xem hội chợ và văn nghệ ra sao. Nghe có quầy bán thức ăn Việt Nam, hắn cũng thèm.
Gần hai tháng trời nay hết ăn bánh mì tới cơm Hy Lạp, tới mì gói, hắn cũng thèm
chả giò, cơm chiên, bánh tét bánh chưng. Vậy là hắn khóa lên người bộ đồ mua ở
tiệm Đạo Quân Cứu Rỗi và đón xe đi dự hội chợ Tết.
Vốn ngại ngùng,
hắn dạo qua quầy bán thức ăn. Thấy giá các món cũng chẳng rẻ, hắn tiếc tiền nên
chỉ mua một chục cuốn chả giò, xong kiếm chỗ ngồi gần cuối rạp vừa nhai lai rai
vừa xem văn nghệ. Chao ôi, được ở trong không khí thân quen với người đồng hương,
hắn không vui mà càng nhớ nhà thậm tệ. Mọi hình ảnh của những khuôn mặt Việt,
chiếc áo dài, lời ca tiếng nhạc quen thuộc quá.
Hắn đứng lên
cùng cất tiếng hát bài Việt Nam Việt Nam với mọi người. Hắn xúc động chảy nước
mắt rồi ra về. Trên chuyến xe điện ngầm từ ga Bathurst tới ga Pape, hắn ngồi thả
hồn đi đâu xa lắm. Tiếng bánh sắt nghiến ken két trên đường rầy khi quẹo cua ở
ga St. George, tiếng đoàn tàu lao nhanh rầm rập qua cầu Bloor/Danforth xoáy tâm
tư. Hắn liên tưởng và bỗng nghe trong tiềm thức một khúc nhạc quân hành trỗi dội,
tiếng giày trận rộn ràng trên đại lộ thủ đô, tiếng vỗ tay rào rào của khách dự
khán hai bên đường. Thì ra trong một lúc quá mệt mỏi và ngủ gật, hắn mơ thấy lại
mình đang tham dự một cuộc diễn hành năm xưa ở Saigon.
Bây giờ hắn
đã là một người vừa về hưu và vẫn còn cư ngụ nơi thành phố đầu tiên hắn đến sau
ngày di tản. Hắn nghĩ lại là mình đã chính thức giải ngũ hồi nào đâu. Thật lạ,
hắn vẫn luôn nghĩ mình vẫn còn là một người lính, một người lính bị bắt tan hàng
oan ức, một người lính không còn súng. “Trả súng đạn này….”, hắn vẫn còn nghêu
ngao bài hát đó.
Phan Hạnh.
No comments:
Post a Comment